Lưu trữ Blog

12 tháng 5, 2009

Đọc lại và suy ngẫm


HỌC MỖI NGÀY. TS. Lê Kiên Thành, con trai của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn trò chuyên với Lương thị Bích Ngọc, báo VietNamNet: "Cha tôi đã từng tâm sự với các con: “Cả đời ba vui, cuối đời lại buồn”. Tôi hiểu ông nói cả đời vui là cả những lúc bị tù đày đánh đâp tàn khốc nhất. Còn nỗi buồn lại xuất hiện khi một trong những mong ước của đời ông đã thành hiện thực là giang sơn thu về một mối... Nhưng không phải bây giờ và cũng không thể là tôi có thể nói ra điều đó...". "Tôi nghĩ, có lẽ đã đến lúc một số biên bản cuộc họp Bộ chính trị thời đó có thể công bố để lịch sử có thể sáng rõ hơn; và con cháu có thể thấu hiểu những điều mà cha ông họ từng trải qua để có được như bây giờ. Và có thể, đó cũng là bài học cho hậu thế...".Tôi chép lại nguồn tư liệu chọn lọc này để đọc lại và suy ngẩm về sự minh triết, giỏi dùng người của chủ tịch Hồ Chí Minh; sự cẩn trọng và tài điều binh khiển tướng của đại tướng Võ Nguyên Giáp; sự chỉ đạo quyết liệt sát thực tiễn cũa Tổng Bí thư Lê Duẫn ...Nếu thiếu một trong những nhân tố đó thì lịch sử Việt Nam hiện đại sẽ có thể khác...

TRÒ CHUYỆN VỚI CON TRAI CỐ TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẪN
00:21' 07/04/2006 (GMT+7)

(VietNamNet) - Cuộc trò chuyện của chúng tôi diễn ra khi Lê Kiên Thành vừa đọc lại khoảng 500 ý kiến phản hồi của độc giả VietNamNet sau bàn tròn trực tuyến Những kỳ vọng về Đại hội Đảng mà anh là một trong ba khách mời.

Trước đó, anh cũng đã có cuộc trò chuyện trên báo An ninh thế giới về những chặng đường để anh - con trai cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, người từng nghĩ "mình hoặc là chết, hoặc thành anh hùng" trở thành một doanh nhân được coi là thành đạt; về những gì "Còn mãi về sau" mà thế hệ cha mẹ anh đã dày công vun đắp... Ngay chiều hôm đó, lại vừa có một đoàn nhà báo Cuba do báo Nhân dân giới thiệu đến thăm xưởng sản xuất của công ty và để nghe "ông chủ" Lê Kiên Thành nói chuyện về Đảng viên làm kinh tế tư nhân. Anh nói: "Một người có xuất thân như tôi trở thành một doanh nhân đã khiến mọi người chú ý..."

Quý từng đồng lẻ và sẵn sàng bỏ qua hàng núi tiền

Bình thường như bao doanh nhân khác, anh bắt đầu câu chuyện về những gói mì tôm - sản phẩm chính của công ty Thiên Minh hiện nay, về những gì mà mình đã từng có như Công ty Công nghệ vật liệu - Thiên Minh ngày nay, TechcomBank, Khách sạn Galaxy, Cát Tiên Sa...

Hiện tại, công việc kinh doanh cụ thể của anh là gì?

- Sản xuất mỳ ăn liền, kinh doanh máy văn phòng, ngoài ra còn có một công ty làm về khách sạn ở Hà Nội (Galaxy Hotel), một công ty về bất động sản ở TP.HCM. Ở các công ty đó đều có người điều hành, tôi chỉ là Chủ tịch HĐQT, riêng công ty Thiên Minh là kiêm chức luôn chức giám đốc vì sự nghiệp kinh doanh của tôi đã đi lên từ đó. Tôi cũng từng là Chủ tịch HĐQT của Techcombank nhưng đã rút hết cổ phần ra trong năm vừa rồi.

Có người nói, anh dám bỏ Nhà nước ra làm ngoài năm 1990 vì mình là con ông Duẩn?

- Không, vì lúc đó ba tôi không còn nữa. Trong công việc, tôi chưa bao giờ sử dụng một mối quan hệ nào ngoài nỗ lực của chính mình. Thời điểm đó, tôi thành lập công ty chỉ có mỗi con dấu thôi, không có gì cả.

Với cương vị là Tổng Bí thư lâu dài như vậy, ba anh hẳn phải để lại nhiều mối quan hệ tình nghĩa và trong số đó...?

- Và ngược lại nữa chứ!

Và tôi tin rằng, những người giàu nhất VN hiện nay không phải là con cái những ông lớn. Nhiều người trong số họ thành công hơn chúng tôi không phải do họ thông minh hơn mà là do vận hội, may mắn nhiều hơn, giống như trúng xổ số vậy. Nhưng đến một lúc nào đó, nếu có sự công bằng về cơ hội, thì người giàu chắc chắn phải giỏi.

Tất nhiên, nói một cách công bằng hơn, tôi cũng được thừa hưởng ở gia đình những điều mà người khác không có được, đó là danh tiếng. Khi ba tôi gần mất, ông nói: Khi chết, có lẽ ba không để được lại một đồng xu nào, có chăng, chỉ là cái tiếng. Bước vào kinh doanh, tôi nghiệm thấy: sao ông nói chính xác như vậy. Cùng điều kiện "dự thầu" như nhau, với nhiều đối tác nước ngoài, nếu tình cờ biết xuất thân, họ sẽ chọn tôi.

Nhưng về một mặt nào đó, cũng phải nghĩ rằng, trong kinh doanh - mình chỉ ỷ vào sự thừa kế danh tiếng là điều không tốt.

Tôi đã từng làm chung quán cà phê với nhạc sĩ Phú Quang. Nhiều người nghĩ khách hàng đến đây vì danh tiếng của ông Phú Quang, nhưng thực tế rất nhiều người đến đây không vì danh nghĩa ông Phú Quang. Nếu chúng tôi làm cà phê ngon thì mới thu hút được khách, chứ nếu chỉ dùng danh tiếng ông Phú Quang để "câu" mọi người đến thì về lâu dài là sai.

Để có được cơ ngơi như bây giờ, anh có... va chạm nhiều tệ nhũng nhiễu không?

- Hồi mới thành lập, công ty của chúng tôi có tên là Công ty Công nghệ vật liệu, nằm trong khuôn viên của Viện Khoa học Việt Nam nên chẳng liên quan gì đến thuế má. Hồi đó tôi còn chẳng hề có khái niệm là phải nộp thuế. Rất ấu trĩ.

Va chạm đầu tiên của tôi trong chuyện làm ăn là với báo chí - khoảng năm 1990, lúc đó Liên Xô chưa sụp đổ. Chúng tôi tiên liệu là sắp tới thì sẽ không có chuyện đi du học theo đường Nhà nước nữa nên tìm cách móc nối với một số trường ĐH của Nga để "kinh doanh" du học, khoảng 500 đô la/một học sinh. Sau khi quảng cáo được đăng trên báo, đến cơ quan tôi thấy số lượng người đến tìm hiểu, đăng ký đông như biểu tình. Có lẽ là vì bọn tôi lờ đi chữ "du học Liên xô" đi mà chỉ ghi là đi "du học nước ngoài" nên người ta kéo đến đông như vậy. Lập tức, một PV đến hỏi: Các anh có chức năng làm việc này không? (Vì thời điểm đó, ai có chức năng tổ chức du học chưa được đề cập đến. Bọn tôi chỉ dựa vào một văn bản hướng dẫn của Bộ GD&ĐT ghi điều kiện của thành phần được đi du học mà không nói rõ những cơ quan nào được tổ chức đưa học sinh đi). Chúng tôi bị phóng viên đó "xoay" là làm trái chức năng.

Tôi "cãi": "Nếu bây giờ chúng tôi mở một quán phở ngay ngoài đường kia và cán bộ nhân viên đi bán phở thì chẳng ai hỏi chức năng cả. Chúng tôi làm một việc rất gần với nghề nghiệp của mình thì tại sao lại phải hỏi "chức năng". Cậu ấy hỏi: Tại sao anh lại tổ chức đi du học tại Liên xô? Tôi bảo: Bây giờ nếu đi du học tại Singapore, Thái Lan... là bình thường, nhưng hỏi tên của 3 nhà bác học người Sing thì tôi e là anh không nói được nhưng nếu anh hỏi tôi các nhà bác học Liên xô thì tôi có thể chỉ cho anh ngay lập tức 100 vị.

Đó gần như là va vấp đầu tiên.

Trong một cuốn sách, Tiến sĩ Đặng Kim Sơn có nói rằng cơ chế của mình đã "đẻ" ra chuyện phong bì. Khi làm doanh nghiệp, anh có phải "đi đêm", phải dùng phong bì để giải quyết những mối quan hệ, để khỏa lấp những điều không thuận lợi do cơ chế?

- Bắt buộc phải dùng phong bì thôi. Bạn hỏi vì sao ư? Vì tôi không thể loại mình ra khỏi xã hội được. Vì cơ chế xã hội mình đang sai, vì bản thân những người nhận phong bì đó không thể sống bằng lương được. Cho nên, về nguyên lý, hiện nay một số người buộc phải tham nhũng để tồn tại, để nuôi nổi mình và doanh nghiệp phải coi đó là những chi phí bình thường, chi phí cho nền tảng xã hội này, khi nền tảng xã hội chưa ở mức bình thường, mà trong đó sự vô lý của đồng lương là một ví dụ điển hình.

Và bài học anh để lại cho các con mình sau một thời gian kinh doanh?

- Tôi vẫn thường dạy cho các con: Khi nào con thấy quý vô cùng một đồng tiền và đồng thời cảm nhận được rằng hàng vạn đồng tiền chẳng có ý nghĩa gì, thì lúc đó mới có thể thành công được. "Có những cái tôi học được rõ nhất ở cha tôi thì về mặt bản chất nó không phải là tố chất người kinh doanh, mà lại dễ tôi dẫn đến thất bại - đó là lòng thương người".

Có những người khi làm ăn, được một đồng thì nâng niu, quý hóa nhưng khi có một vạn đồng tiền thì thay đổi, đánh mất bạn bè, anh em và những giá trị khác.

Nhưng có những người thì ngược lại, không biết nâng niu một đồng tiền, không biết tiết kiệm một đồng tiền vì đồng tiền đó không phải do mồ hôi nước mắt mà có. Người mà có thể đánh bạc hàng triệu đô thì không thể là người biết nâng niu, quý trọng một đồng tiền.

Biết nâng niu quý trọng từng đồng tiền lẻ và sẵn sàng bỏ qua hàng núi tiền vì những giá trị cao quý - nghe qua thì có vẻ mâu thuẫn nhau ghê gớm, nhưng nếu nó qui tụ lại được ở một con người thì rất quý.

Anh từng trải qua cảnh nghèo không?

- Tôi vẫn nhớ hồi ở bộ đội, mỗi lần được phát một bộ đồ mới thì tôi thường ngắm nghía bộ đồ cũ, đắn đo mãi xem là mình có thể mặc bộ đồ này thêm 1 năm nữa không để bán bộ đồ mới đi gửi tiền về mua sữa cho con. Hồi đó, vợ chồng tôi vẫn sống chung với với ba mẹ.

Trong những tố chất làm nên một doanh nhân, có điều gì anh học được từ cha mình một cách rõ rệt?

- Có những cái tôi học được rõ nhất ở cha tôi thì về mặt bản chất nó không phải là tố chất người kinh doanh, mà lại dễ tôi dẫn đến thất bại - đó là lòng thương người. Có lẽ tôi không thể rất giàu được cũng vì tố chất đó. Hiện nay, ở Việt Nam, thương trường rất khốc liệt, để có thể thành công trong kinh doanh, đôi khi phải chấp nhận sự tráo trở. Nếu làm được một điều gì đó mà để người khác "chết" thì mình không làm được. Như việc đi ra khỏi Techcombank trong thời điểm đang làm ăn thuận lợi nhất, nhiều người thấy khó hiểu nhưng tôi thanh thản. Cũng có thể, tôi vốn sinh ra không phải để làm kinh doanh mà là nhờ một sự ngẫu nhiên do xã hội đưa đẩy.

Lương Bích Ngọc - Nguyễn Thu Thuỷ (thực hiện)

ÔNG CÓ HIỂU CHA MÌNH KHÔNG?
10:05' 28/04/2006 (GMT+7)

(VietNamNet) - "Tôi nghĩ, có lẽ đã đến lúc một số biên bản cuộc họp Bộ chính trị thời đó có thể công bố để lịch sử có thể sáng rõ hơn; và con cháu có thể thấu hiểu những điều mà cha ông họ từng trải qua để có được như bây giờ. Và có thể, đó cũng là bài học cho hậu thế..."

Tiếp tục cuộc trò chuyện với ông Lê Kiên Thành về vị trí của cố Tổng bí thư Lê Duẩn trong các sự kiện lịch sử quan trọng như 1968,1975... Vì chưa có dịp kiểm chứng nên tòa soạn và phóng viên không khẳng định những vấn đề liên quan đến tư liệu lịch sử trong phần trả lời của nhân vật là quan điểm của mình. Nếu thấy chưa thỏa đáng, độc giả có thể tranh luận lại với nhân vật đối thoại và chúng tôi sẽ lựa chọn để đăng tải.

- Điều gì ở cha mình khiến ông ngưỡng mộ nhất?

- Đó là phương pháp tư duy, và cách phân tích sự việc. Ông từng nhắc với tôi câu nói của Lênin: Phân tích sự việc bằng trí óc, nhưng hành động bằng trái tim. Ông cho rằng: Khi trái tim mình đập đúng, thì mình phải hiểu được nó. Ví dụ, khi yêu đất nước đến vô cùng, đến mức trái tim chỉ có thể đập vì nó, người ta lại có những quyết định khác thường, những quyết định xuất phát từ những suy luận khác thường và không theo quy luật bình thường…

Một người bạn Mỹ nói với tôi: trong chiến tranh, suy cho cùng thì vật chất lớn hơn thắng vật chất nhỏ hơn, không chứa đựng yếu tố tinh thần. Anh ta dẫn lời Napoleon nói: Chúa chỉ đứng về kẻ mạnh. Tôi nói rằng, cha tôi đã nhìn thấy trong quy luật của sức mạnh đó có những điều lạ kỳ: Trong chiến tranh có những lúc A lớn hơn B, nhưng 2A lại chỉ bằng 2B và 3A lại nhỏ hơn 3B. Yếu tố tinh thần đã tạo ra một sức mạnh vật chất chống lại quy luật của sức mạnh vật chất vẫn tồn tại trên thế giới bình thường. Bình thường, sức mạnh tinh thần đó chưa đủ làm nên sức mạnh vật chất cụ thể, nhưng khi được khơi dậy và tổ chức lại một cách khoa học thì sức mạnh tinh thần đó có thể biến thành một sức mạnh vật chất phi thường. Vì thế mà duy nhất người Việt Nam hạ được B52 của Mỹ trong chiến tranh vừa qua.

Khi sang Mỹ, chứng kiến sự hùng mạnh của họ, tôi rất tự hào mình là người Việt Nam; và tôi hiểu rằng mình phải mạnh như thế nào thì mới thắng được Mỹ.

- …Và vì những suy luận không theo quy luật bình thường đó mà trong suốt hai mươi năm, cha ông đã từng có những hành động quyết đoán vì mục đích thống nhất đất nước?

- Sau này, cha tôi có kể lại cho chúng tôi nghe kỷ niệm về một lần ông dám… nói dối TƯ, nhưng là nói dối vì toàn cục, vì mục đích thống nhất đất nước. Đó là năm 1959, ông sang Trung Quốc và Liên Xô xin ý kiến về việc đánh Mỹ nhưng bị cản rất dữ dội. Họ có lý của họ vì cho rằng Mỹ rất mạnh, không chừng nếu đánh thì không những không giải phóng được miền Nam mà còn mất cả miền Bắc, thậm chí có thể gây ra thế chiến thứ III, còn việc thống nhất đất nước thì cần phải có thời gian lâu dài hơn nữa.

Thế nhưng, là người nắm vững quy luật của Cách mạng Việt Nam, càng để lâu, máu xương của đồng bào càng đổ nhiều, ông quyết định thưa với Bác và TƯ: “Các đồng chí ấy ủng hộ…”

Và sau này, việc ông nói trong một cuộc họp: “Chúng ta không được sợ Trung Quốc, Liên Xô, không sợ Mỹ” cũng đã khiến TƯ lúc đó bị sốc. Trong một cuộc họp khác, ông Hoàng Văn Hoan đã đứng lên chất vấn: “Thưa Bác tôi muốn anh Ba giải thích lại là tại sao trong cuộc họp trước, anh Ba lại nói là không được sợ TQ, không được sợ LX – có nghĩa là gì?” Nghe thế, ông Nguyễn Chí Thanh vụt đứng dậy nói: “Thưa Bác, điều anh Ba nói là rất đúng và cực kỳ cần thiết”. Tất cả mọi người đều vỗ tay.

Khi đã vượt qua sự khó khăn ban đầu bằng tinh thần độc lập tự chủ và thái độ kiên quyết, về sau, chúng ta đã nhận được sự ủng hộ toàn diện và mạnh mẽ của Liên Xô và Trung Quốc.

Tôi nghĩ, có lẽ đã đến lúc một số biên bản cuộc họp Bộ Chính trị thời đó có thể công bố để lịch sử có thể sáng rõ hơn và con cháu có thể thấu hiểu những điều mà cha ông họ từng trải qua để có được như bây giờ. Và có thể, đó cũng là bài học cho hậu thế.

Năm 1972, khi Trung Quốc đón Nich-xơn thì Chu Ân Lai sang gặp cha tôi ở Gia Lâm. Ban đầu, câu chuyện của hai người khá căng thẳng. Chu Ân Lai nói là chúng tôi sẽ “bàn về vấn đề VN với Ních xơn”, cha tôi rất gay gắt, ý là: Mỹ muốn nói về VN thì sang Hà Nội nói chuyện. Người Việt Nam tự quyết định vận mệnh của mình và không ai có thể làm điều đó thay chúng tôi…

Theo tôi được biết, lúc đó Thủ tướng Chu Ân Lai đã xin lỗi. Sau khi gặp Nich-xơn, thủ tướng Chu Ân Lai lại sang Việt Nam và thông báo tình hình sẽ thế này, thế kia. Nghe xong, cha tôi nói: “Tôi chỉ biết trước một điều là sau khi Nich-xơn gặp các đồng chí, Mỹ sẽ đánh chúng tôi gấp 10 lần".

Dự đoán đó đã đúng. Sau đó, Mỹ đã rải bom khắp các thành phố lớn và làng mạc miền Bắc.

Người ta vẫn nói rằng, vì cha tôi mà quan hệ Việt Nam và Trung Quốc xấu đi. Thế nhưng, họ không biết rằng, năm 1961, tại Đại hội 81 Đảng cộng sản tổ chức tại Mátxcơva, Kholosop đưa ra những ý kiến trong đó phê bình gay gắt Đảng cộng sản Trung Quốc. Tại cuộc họp đó, duy nhất Đảng Lao động Việt Nam mà cha tôi là trưởng đoàn, đứng lên phản đối. Sau đó, đại diện Đảng cộng sản Pháp có đến gặp và nói: “Các đồng chí Việt Nam chỉ biết có quyền lợi dân tộc mà xao nhãng tinh thần quốc tế vô sản”. Cha tôi trả lời: “Tinh thần quốc tế vô sản lớn nhất bây giờ là chống Mỹ, các đồng chí hãy để chúng tôi làm việc đó”.

- Anh đánh giá thế nào về chiến dịch Mậu Thân năm 1968? Sự kiện đó có mang một phần tính cách của cha anh không?

- Bản chất sự kiện năm1968 tự nó đã nói lên một phần tính cách đó rồi. Cha tôi nói rằng đó là một quyết định khó khăn nhất nhưng được tính toán kỹ lưỡng và mang tính quyết liệt nhất. Ông nhận định đó là thời điểm mà nước Mỹ đứng trước 2 sự lựa chọn, một là Oét-mô-len đề nghị tăng gấp đôi số quân lên, chiến tranh không dừng lại ở miền Nam, mà đánh ra một vài điểm miền Bắc; thứ 2 là người Mỹ cho rằng không thể thắng được nữa và phải ra đi.

Và chúng ta đã quyết định đánh một trận lớn đến mức mà người Mỹ không thể tưởng tượng được. Những chiến binh của mặt trận giải phóng đã có mặt tại đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn. Chính người Mỹ sau này cũng nói rằng đó là trận đánh không phải vào Sài Gòn mà vào tận Washington. Để làm được điều đó, chúng ta phải chấp nhận những hi sinh, mất mát to lớn.

Sau này ông Trần Bạch Đằng có nhắc lại một câu của cha tôi là: "Đó là một trận đánh làm tung tóe những yếu tố chính trị mới". Đó là trận đánh mà theo tôi nên đưa vào kinh điển lịch sử nghệ thuật chiến tranh. Rõ ràng là sau đó dẫn đến việc nước Mỹ đã rút quân. Cha tôi từng nói trong Thư vào Nam rằng chúng ta không bao giờ thắng được Mỹ ở nấc thang đỉnh cao của chiến tranh, nghệ thuật của mình là kéo Mỹ xuống thang và thắng ở nấc thang cuối cùng. Không làm nhục nước Mỹ thì chúng ta mới thắng được và Mỹ mới chấp nhận cái thắng đó. Chiến dịch 1968 là trận đánh kéo Mỹ xuống nấc thang cuối cùng để dẫn tới sự kiện 1975.

- Cha anh có phải là người quyết định đánh vào Buôn Mê Thuột trong chiến dịch 1975?

- Chuyện này bây giờ vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng theo tài liệu của tướng Dũng thì đó là quyết định của cha tôi. Và ban đầu, khi Đại tướng Văn Tiến Dũng đưa chỉ thị đó vào miền Nam, nhiều tướng lĩnh ở đó đã phản đối. Họ nói rằng các ông ngoài Bắc không hiểu được hoàn cảnh thực tế ở trong này, chúng ta từng dùng một sư đoàn chỉ đánh một quả đồi thôi còn không nổi, làm sao đánh được vào thị xã lớn? Thậm chí có người còn định xin một chiếc trực thăng ra báo cáo TƯ rằng đây là quyết định sai. Nhưng tướng Dũng bảo: Đây là quyết định của anh Ba và Bộ chính trị, chúng ta phải làm cho bằng được.

Ông Trần Quỳnh từng nói: Anh Ba là người sáng có thể nói khác, chiều có thể quyết định khác, ý nói ông rất biện chứng và nắm bắt được thời cuộc. Ông Trần Quỳnh nói: Tôi gần anh Ba tôi biết, khi ăn cũng nói đến miền Nam, ngủ nghĩ đến miền Nam. Khi con người say mê với chuyện gì, họ luôn có những ý tưởng hết sức sáng tạo về nó.

- Có thể vì những chuyện như thế mà có lời đồn rằng, cha anh đã từng nắm hết quyền lực trong Đảng sau năm 1959? Anh có nghe những lời đồn như thế và cha anh khi sinh thời có biết những lời xì xào như thế không?

- Sau ngày miền Bắc sai lầm trong cải cách ruộng đất, Bác Hồ đã kiên quyết gọi cha tôi ra để giao trọng trách Tổng Bí thư. Và cha tôi đã từng ngạc nhiên bởi khi đó chỉ có mình ông là ủy viên TƯ ở miền Nam và không phải là người gần Bác nhiều. Không những thế, Bác còn đề nghị cha tôi giữ thêm nhiều trọng trách nhưng ông không nhận.

Tôi nghĩ rằng trong cán bộ, Đảng viên chẳng có ai đồn như bạn hỏi.

Nếu có thì sau này, người ta cũng chỉ phân tích lại quá trình để chúng ta bắt đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ mà trong đó ý kiến của cha tôi có sự tác động nhất định đến sự thay đổi cục diện.

Bây giờ cuộc kháng chiến đã thành công, mọi chuyện có vẻ dễ hiểu. Thế nhưng ở thời điểm bắt đầu, thì không phải mọi người đều thống nhất với con đường đi đó mặc dầu ai cũng muốn thống nhất đất nước. Lý do là vì ở thời điểm bắt đầu, Liên Xô và Trung Quốc đã cản rất dữ dội, vì sợ rằng sức mình không thể làm được điều đó.

Nhưng điều quan trọng là với khả năng của mình, ông đã thuyết phục được và cả quyết đoán nữa để có kết quả của cuộc kháng chiến như năm 1975. Nếu nói rằng “tiếm quyền” thì hóa ra là toàn bộ cuộc kháng chiến này do cha tôi lãnh đạo hết à? Như thế thì không phải là phê phán ông nữa mà là đã đánh giá công lao của cha tôi lớn quá.

Những học giả phương Tây thì đánh giá thời điểm đó, Bộ Chính trị có quan điểm khác với Tổng bí thư Lê Duẩn và những đường lối quyết định nhất của cuộc chiến là do cha tôi vạch ra.

Còn tôi hiểu rằng cha tôi là người có khả năng thuyết phục số đông.

- Quan hệ của cha anh với Tướng Giáp thế nào?

- Tôi chỉ dẫn một câu mà mà Tướng Giáp hay nói với cha tôi: Đời tôi đi làm cách mạng là nhờ anh Ba. Cha tôi thì nói lại là: Những gì mà tôi giúp anh là vì tôi nhớ đến người vợ đầu của anh.

Chuyện là thế này, trong lúc cha tôi bị tù, có một người tù khác đã ném cho ông mẩu giấy nói rằng ở ngoài sắp sửa làm bạo động Nam kỳ; mảnh giấy đó bị rơi ra ngoài và một sĩ quan Pháp nhặt được. Ông hiểu rằng người Pháp sẽ xử bắn bất kỳ người nào dính đến cuộc khởi nghĩa Nam kỳ. Lúc đó ông nhờ bà Thái (Nguyễn Thị Quang Thái - người vợ đầu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - NV) nói chuyện với viên sĩ quan kia để lấy lại mẩu giấy đó. Nhờ sự khéo léo và vốn tiếng Pháp của mình, bà Thái đã lấy lại được cái thư, tức là đã cứu sống ông.

- Sau khi Bác Hồ mất thì mối quan hệ của cha anh với ông Trường Chinh và ông Phạm Văn Đồng như thế nào?

- Tuyệt đối tốt.

- Và họ coi ông là lãnh tụ?

- Họ coi cha tôi là một trong những lãnh tụ từ ĐH III, năm 1960.

- Những yếu tố để họ coi ông là lãnh tụ?

- Tôi nghĩ là có nhiều yếu tố lắm, như hồi trong Nam thì người ta gọi ông là “ông 200 ngọn nến” vì những ý kiến của ông rất sáng láng.

Cha tôi thường nói: Trong quá trình ba làm việc chưa bao giờ ba thấy ai cao hơn ba và chưa bao giờ ba thấy ai thấp hơn ba. Tôi nghĩ, có lẽ, đó là nguyên nhân khiến ông để lại dấu ấn trong lịch sử. Kể cả Mao Trạch Đông, Khrushop, những người mà tất cả những người sống thời đó đều cảm thấy sức nặng của họ. Thế nhưng, khi gặp, cha tôi cảm thấy không hề bị ngợp. Và rồi, khi nói chuyện với những người như bọn tôi chẳng hạn, chưa bao giờ ông đối xử theo kiểu cha - con mà theo cách của những người bạn với nhau.

Ông kể, một lần vào một lớp học ở miền Nam sau ngày giải phóng, có một cô bé hỏi ông một vấn đề gì đó về xã hội, ông lớn tiếng nói lại với cô bé. Cả hiệu trưởng lẫn những người có mặt ở đó đều sợ run lên, tưởng ông đang nóng giận. Nhưng sau đó, ông nói với cô bé: “Bác nói với cháu như vậy, là bác coi cháu như đồng chí của bác”. Mọi người vỗ tay hết.

Nếu như người khác, sẽ nói: Cháu ngồi xuống đi, chuyện này cháu chưa biết được đâu", thì đó là mức độ thấp. Nhưng với như cương vị là một Tổng Bí thư mà tranh luận gay gắt với một cô bé học sinh, thì đó là sự tôn trọng. Qua đó cha tôi muốn nói với các con một điều: Đừng bao giờ thấy người nào cao hơn mình, nhưng cũng đừng bao giờ thấy ai thấp hơn.

Người ta ghi nhận công lao rất lớn của cha anh trong công cuộc giải phóng miền Nam. Nhưng cũng có dư luận nói rằng: Những ý tưởng về kinh tế của ông bị ảnh hưởng từ Liên Xô đã biến cả nước thành một đại công trường, đại nông trường; Chính điều đó làm cho đất nước lẽ ra có thể phát triển hơn sau 1975. Ý kiến của anh về chuyện này?

CỐ TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN VÀ "ĐÊM TRƯỚC ĐỔI MỚI
10:09' 14/06/2006 (GMT+7)

(VietNamNet) - Cuộc trò chuyện giữa nhà báo Lương Thị Bích Ngọc và ông Lê Kiên Thành được tiếp tục, lần này là về vai trò của cố TBT Lê Duẩn trong thời kỳ trước đổi mới...
1. Trò chuyện với con trai cố TBT Lê Duẩn
2. Ông có hiểu cha mình không?

Tôi đã chuyển cho anh nhiều mail phản hồi của độc giả sau khi đăng hai kỳ của cuộc trò chuyện này. Trong đó không ít lời tri âm, và cũng quá nhiều sự thoá mạ. Cảm giác của anh thế nào?

- Điều tôi quan tâm là những điều mình nói có gì sai lệch với sự thật không? Còn những lời thoá mạ qua mail với những địa chỉ ảo...? Theo tôi, với cách đó, họ không muốn đối thoại một cách công khai và đàng hoàng.

Mặt khác, cha tôi, người đứng đầu đất nước trong một giai đoạn dài - và giai đoạn đó nối từ thời chiến đến 10 năm đầu của hậu chiến, còn kèm theo với quá nhiều biến cố lịch sử - cha tôi lại là người có cá tính mạnh mẽ, tôi nghĩ rằng ông có người yêu kẻ ghét cũng là điều bình thường.

Sinh thời, cha anh có biết những lời đàm tiếu về mình không? Nhất là vào những thời điểm khốn khó của đất nước sau năm 1975?

- Tôi muốn kể cho bạn nghe câu chuyện này: Vào những năm sau 1975, có lần, một cán bộ cấp cao thân cận đã đột ngột gõ cửa phòng ông và rồi nói rất lâu về những gì mà bên ngoài người ta đang phàn nàn. Nói suốt cả buổi chiều, sang cả buổi tối. Còn đọc luôn cả vè. Đến lúc nhìn đồng hồ, ông ta hoảng quá, nhưng không ngờ cha tôi bảo: "Về ngủ đi, mai đến nói cho tôi nghe tiếp nhé!". Ông không bất ngờ về điều gì.

Ngày 30/4/1975, ở giây phút hàng vạn người ngộp thở vì chiến thắng, cha tôi lặng lẽ xin một điếu thuốc của người bảo vệ, điếu thuốc ông hút lại sau 30 năm. Hơn ai hết, ông không hề bất ngờ vì chiến thắng này, vì ông luôn tin những gì mà mình đã theo đuổi.

Cũng trong ngày đầu tiên đoàn tụ cùng đồng chí, anh em ở Sài Gòn, ông nói: Đừng vui quá, sắp tới sẽ vô cùng khó khăn, chúng ta phải tuyên chiến với giặc đói.

"Bố mày có biết chuyện là nhiều người không có gạo ăn không?" - khi tôi nói với ba tôi là bạn tôi đã nói như vậy, ông rất bình thản: Những khó khăn lớn nhất của dân tộc đã đi qua rồi...

Có người nói cách nhìn của cha tôi là chạy trốn thực tế và lý tưởng hoá cuộc sống.

Còn tôi nghĩ rằng, ông là một người biện chứng.

Một số người từng ghi nhận công lao đặc biệt của cha anh trong công cuộc thống nhất đất nước thì cũng nói rằng cố tổng bí thư Lê Duẩn đã không thực tế trong điều hành kinh tế đất nước sau năm 1975, rằng ông phải chịu trách nhiệm chính về những khó khăn mà người dân Việt Nam phải trải qua sau năm 1975?

- Tôi cũng đã nghe nhiều lời bàn tán đại loại như vậy. Nhưng tôi cũng tin rằng mình rất hiểu cha. Bây giờ, nếu tôi nói khó khăn sau một cuộc chiến kéo dài 30 năm là điều không thể tránh khỏi thì cả bạn cũng có thể nói là tôi biện hộ.

Cha tôi giữ trách nhiệm Tổng Bí thư mười năm sau hòa bình. - Giờ đây, khi tôi đã trên 50 tuổi, đã trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, và trở thành một doanh nhân, tôi càng hiểu rằng - 10 năm là khoảng thời gian quá ít ỏi để một dân tộc bỏ được nhiều thói quen theo quán tính của thời chiến. Sau này, khi nói về "đêm trước đổi mới", người ta thường coi đó như một đêm tối mà trong đó những người lãnh đạo thời kỳ đó gần như chỉ là con số không; và câu chuyện "giá - lương - tiền" như là một nỗi nhục về điều hành kinh tế.

Nhìn lại 30 năm sau cuộc chiến, tôi có thể tự hào rằng mình đã có một người cha có tư duy ở tầm cỡ như vậy. Đất nước khác, kể cả như Liên Xô chỉ dám ra khỏi bao cấp khi chế độ đó bị sụp đổ sau hơn 70 năm tồn tại. Việt Nam nghĩ tới chuyện ra khỏi bao cấp chỉ sau khi hết chiến tranh khoảng 5 năm.

Bây giờ người ta phê phán nhất "Giá - Lương - Tiền, nhưng đó là cú đột phá mãnh liệt vào ý chí khủng khiếp nhất của toàn Đảng toàn dân lúc đó; bởi thực hiện "Giá - Lương - Tiền" tức là "anh" phải từ bỏ chế độ bao cấp đã nuôi dưỡng "anh" trong vòng mấy chục năm. Đó là cuộc chuyển đổi có tính sinh tử với một nền kinh tế. Bạn thử hình dung xem, cả một đám đông bao nhiêu năm quen với tem phiếu, sổ gạo, họ từng nghĩ rằng lấy cái đó đi của họ là tội ác. Nhiều người trong bộ phận lãnh đạo cũng nghĩ như vậy…

Nhưng điều mà bây giờ người ta vẫn còn ám ảnh về GIÁ - LƯƠNG - TIỀN là giá bị đẩy lên tới hàng chục lần sau khi bỏ bao cấp?

- Bạn có hình dung ra Liên xô khi chuyển đổi nó đẩy giá lên tới hàng vạn lần chứ không phải là chục lần trong khi đó sở vật chất của họ ở tầm cao hơn mình rất nhiều!

Người ta vẫn nói rằng, cha anh đã hoàn toàn đi theo mô hình kinh tế của Liên xô, biến cả đất nước thành một đại công trường…

- Tôi không cho là như vậy. Tôi vẫn còn nhớ hồi đó, khi sang Liên xô, trong một bữa cơm, một người trong Bộ Chính trị của ĐCS Liên Xô chất vấn cha tôi rằng: Tại sao các đồng chí lại có thể cho phép một xí nghiệp tự định giá sản phẩm của mình. Ông ôn tồn giải thích: Các đồng chí không biết chứ chúng tôi có điều kiện khác các đồng chí nên Nhà nước không thể cung cấp nguyên vật liệu cho tất cả các nhà máy, xí nghiệp được. Những xí nghiệp mà Nhà nước cung cấp nguyên vật liệu thì Nhà nước có thể định giá sản phẩm, còn nếu xí nghiệp, nhà máy tự đi kiếm nguyên vật liệu từ bên ngoài về sản xuất thì họ tự định giá.

NƠI SẢN XUẤT TỰ ĐỊNH GIÁ SẢN PHẨM - một việc bây giờ như quá đơn giản thì hồi đó đã là vi phạm vào quy tắc của hệ thống. Bây giờ, rất nhiều người không thể hình dung nổi là có chuyện đó.

Lúc đó, ảnh hưởng của Liên xô đối với mình vẫn rất lớn. Còn vì sao thì những người của thời đó cũng tự biết; và bây giờ, những người biết phân tích một chút cũng tự hiểu: Cha tôi, một người từng phát biểu trong một cuộc họp của Bộ Chính trị rằng: "Chúng ta phải đánh Mỹ, không được sợ Liên Xô, Trung Quốc" lại có thể chủ động nghe theo mô hình kinh tế Liên Xô trong thời bình sao.

Chúng ta dám nghĩ, chúng ta vươn ra khỏi tầm ảnh hưởng đó để làm GIÁ - LƯƠNG - TIỀN, làm tiền đề cho đổi mới, trăn trở về khoán 10 cũng từ thời điểm đó mà ra nhưng sau này người ta không hiểu hoặc không nhắc đến.

Vào thời điểm đó, đại đa số của người Việt Nam, đặc biệt là bộ phận lãnh đạo, họ không quen và không hình dung nổi về thị trường. Có một lãnh đạo một địa phương lúc đó đã từng "lên bờ xuống ruộng" chỉ vì những ý tưởng cải cách kinh tế của ông quá táo bạo, tuy rằng được cha tôi ủng hộ gần như tuyệt đối. Vào thời điểm đó, người đi đầu đổi mới có thể bị hệ thống cho là "trở cờ...", mà hiển nhiên, cha tôi không thể làm thay đổi ý chí của đa số.

Tôi nghe một số câu chuyện đại loại nói rằng cha anh rất ấu trĩ về tư duy kinh tế...?

Ông Lê Kiên Thành: "Một người đàn ông có thể diễn kịch với cuộc đời nhưng chân dung họ hiện lên trong mắt con cái là chân thực nhất..." Ảnh:LAD

- Ông không phải là người toàn bích nhưng trong thời bình, nhiều người cấp tiến, những người mà sau này người ta vẫn đánh giá là có tư duy bài bản về kinh tế thị trường tương đối sớm vẫn gọi những ý tưởng của cha tôi là: "Ý tưởng từ cái đầu 200 ngọn nến".

Còn những lời đồn… Tôi đã đối diện với những lời đồn về cha mình trên dưới 50 năm nay. Nhưng tôi tự hào về ông vô cùng vì tôi hiểu rằng, một người đàn ông có thể diễn kịch với cuộc đời nhưng chân dung họ hiện lên trong mắt con cái là chân thực nhất.

Tôi tin rằng những câu chuyện như thế này, bạn chưa nghe, và nhiều người chưa biết nhưng những người trong cuộc thì họ vẫn còn sống, và và tôi tin là họ thầm nghĩ trong đầu: "Đúng, những chuyện về anh Ba như vậy là có…". Vâng, tôi chỉ cần như vậy.

… Có lần, cha tôi cử một cán bộ ngoại giao sang Mỹ tìm hiểu để sau đó bàn chuyện bình thường hóa quan hệ, người đó đi thấy ngợp quá nhưng về lại sợ "anh Ba cho là ăn phải bã tư bản" nên chỉ toàn kể chuyến xấu. Cha tôi nghe xong, cười bảo: "Mỹ nó xấu thế mình quan hệ làm gì…". Sau đó, ông ta đành phải nói những gì mắt thấy tai nghe.

Đi thăm một địa phương tương đối là năng động lúc đó, tại HTX chăn nuôi, nhìn thấy hàng chục người ngồi thái rau nuôi mấy con lợn còi, cha tôi nói với người đứng đầu: "Cậu hiểu thế nào là làm ăn lớn. Làm ăn lớn là mỗi người nông dân có thể nuôi hàng ngàn con gà, hàng trăm con lợn chứ không phải tập trung nhiều người lại để làm". "Nhưng TƯ chỉ đạo khác…", ông ta thành thật. Cha tôi nói: Tỉnh cậu có điều kiện để làm mô hình đổi mới, cậu lại có tư duy kinh tế sáng tạo, sao cậu cứ chần chừ. Mỗi nơi một đặc thù. Các địa phương phải chủ động rồi báo cáo, đôi khi từ mô hình này tốt mà làm điểm cho cả nước. TƯ chỉ đạo thay được các địa phương từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn thì cần gì các cậu nữa…".

Một lần, về Hải Phòng, đến thăm một HTX làm hàng xuất khẩu, cha tôi hỏi một cô công nhân: "Cháu có biết đồng đô la là gì không?". Cô ta lắc đầu. Cha tôi đã nói với Chủ tịch Hải Phòng lúc đó: "Người làm xuất khẩu mà không biết đồng đô la là gì thì họ sẽ không có động lực…".

Rất nhiều câu chuyện như vậy về cha tôi mà không nhiều người biết. Những người biết, họ từng biết tính cha tôi, rằng không cần lắm việc người ta phải ghi công trạng của mình hoặc hiểu mình, miễn rằng chúng tôi - những người con của ông đã tin, yêu, tự hào về ông.

- Thế thì theo anh, trong thời bình, ảnh hưởng của Tổng bí thư Lê Duẩn có còn tuyệt đối nữa không?

- Cũng như thời bắt đầu của cuộc kháng chiên, trong giai đoạn mới, ông cũng phải chờ đợi người ta hiểu ý tưởng của mình. Nhưng lúc đó, những người có thể chia sẻ với cha tôi như đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã không còn nhiều nữa. Và có thể, lực cản để chúng ta bứt phá lúc đó nằm ở tiềm thức của đại đa số lãnh đạo, công chức, người dân và có thể ở cả chính ông nữa.

- Có một số người nói rằng, khi về già cha anh rất cô đơn?

- Có thể. Chúng tôi, những người con của ông cũng cảm nhận đươc sự cô đơn của cha tôi về cuối đời, khi mà những ý tưởng của ông không còn cơ hội được thực hiện như trong chiến tranh…

- Anh có nghĩ sự cô đơn đó của cha anh về cuối đời xuất phát từ việc thiếu những người tri âm, thân cận không…?

- Có những người đã từng chia sẻ với ông những ý tưởng lớn trong suốt hai cuộc kháng chiến thì lại có những tính toán riêng…

- Anh có thể nói rõ hơn được không?

- Cha tôi đã từng tâm sự với các con: “Cả đời ba vui, cuối đời lại buồn”.

Tôi hiểu ông nói cả đời vui là cả những lúc bị tù đày đánh đâp tàn khốc nhất. Còn nỗi buồn lại xuất hiện khi một trong những mong ước của đời ông đã thành hiện thực là giang sơn thu về một mối...

Nhưng không phải bây giờ và cũng không thể là tôi có thể nói ra điều đó...

11 tháng 5, 2009

Nửa đêm tỉnh thức đi cày đồng Văn



HOCMOINGAY. Tôi vùng dậy lúc nửa đêm Mother's Day để đọc lại bài Chi tiết nhỏ của Đinh Hà Triều và đọc kỹ lại hai bài: Đại tướng Võ Nguyên Giáp chân dung một huyền thoại (của Cù Huy Hà Vũ), Tướng Giáp (của Huy Đức) để đắm mình vào việc so sánh, đối chiếu các tư liệu. Một ít thông tin đã được chép lại tại DANHNHANVIET. Đúng rồi! Làm việc muốn đạt hiệu suất cao cần phải...in tất cả trong đầu và trở thành một phần trong con người (1). Sự chú tâm cao độ đến mức "lóe sáng"(2). Cẩn trọng, không xem thường việc nhỏ bởi lỗ thủng đắm thuyền, chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn (3). Đào Duy Từ chỉ xuất hiện trong chín năm đủ để lại một sự nghiệp (4). Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quang Khải là những kinh nghiệm quý và bài học lớn (5). Những chi tiết, tài liệu của các ông Trần Thái Bình (6), Bùi Diễm, Huy Đức, Cù Huy Hà Vũ ...luận về tướng Giáp thật hay! Nhưng riêng tôi thì sâu sắc hơn cả, giá trị hơn cả, hay hơn cả, đó là bài học thực tiễn và Tổng tập Võ Nguyên Giáp(7).

Thông tin tư liệu:

1)HUY ĐỨC. Một trong những học trò của Tướng Giáp, ông Bùi Diễm, một người đã từng là Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa năm 1965, nhớ lại: Khi tôi vào trường Thăng Long, nơi đây đã sôi sục ý chí chống Pháp và những cuộc tranh luận về tương lai cho xã hội Việt Nam. Ban giáo sư gồm những người như ông Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giam, Trần Văn tuyên… Nhưng trong tất cả những nhân vật đáng nhớ, đặc biệt có một người tôi khó quên: đó là ông Võ Nguyên Giáp, người dạy tôi về môn Sử. Dáng người nhỏ nhắn song nhìn vào ông thì thấy cả một bầu nhiệt huyết. Những gì về ông Giáp hồi ấy thật đặc biệt, vì vậy mà hơn nửa thế kỷ sau, tôi vẫn còn nhớ rõ rệt. Phần giảng dạy của ông về Nã Phá Luân (Napoléon) rất ly kỳ. Ông trình bày tường tận chiến thuật và chiến lược của Nã Phá Luân bằng cách tả rõ từng trận đánh nhỏ một. Hình như ông đã in tất cả trong đầu và Sử trở thành một phần trong con người ông. Ông như chìm đắm vào thế giới của mình và ông lôi kéo học trò vào thế giới đó. Trong giờ ông giảng, học sinh thường im lặng như tờ… (Bùi Diễm- Gọng Kìm Lịch Sử, Phạm Quang Khai, 2000,tr. 21,22,23).

2)CÙ HUY HÀ VŨ: Tuy vậy, trước khi đi đến quyết dịnh cuối cùng, Đại tướng bảo tôi bày lại tất cả những bức trước đó đã đựợc cất bớt theo phương pháp loại trừ dần. Võ Nguyên Giáp đứng đó, trước các bức họa như thể đứng trước sa bàn chiến dịch. Bấy nhiêu bức là bấy nhiêu giải pháp khác nhau. Đã quyết định rồi nhưng để chắc không sai lầm, ông lại xem lại tất cả. Đại tướng ơi! đến bây giờ tôi mới cảm nhận được thế nào là giây phút đi đến quyết định “kéo pháo ra” ở mặt trận Điện Biên. Quả là khối óc vĩ đại vì đã hoạt động liên tục không chỉ trước, trong mà cả sau khi đã quyết định. Như thể “trao giải”, ông bèn kí vào các bức họa. Nhanh như chớp, đầy đủ cả họ lẫn tên. Thảo nào nhà sử học Pháp Jules Roy đã dùng từ “lòe sáng”(fulgurante) để mô tả chữ kí của ông. Sau khi hoàn tất công việc của một vị “chủ khảo tình thế”, Võ Nguyên Giáp hỏi tôi: “Mình có khó tính lắm không?” “Thưa Đại tướng – tôi đáp – dễ dãi không làm nên nghiệp lớn!”.

3)ĐINH HÀ TRIỀU. Tôi không nhớ thật chính xác nhà văn nào đã nói câu “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Chỉ biết người nói câu đó là một nhà văn lớn. Thật thế, những “tác phẩm đi cùng năm tháng” trong văn học Việt Nam thời kì từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975 cũng có khá nhiều chi tiết nhỏ của các nhà văn lớn khiến những người dạy văn, học văn phải “đau đầu” hoặc vì lí do này khác đành “lướt qua”. Mà sự lướt qua ấy không ít thì nhiều ảnh hưởng xấu đến việc dạy – học. Người đọc văn, dạy văn học văn như vậy là đã xem nhẹ ý nghĩa cụ thể,tính hợp lí của các chi tiết, các tín hiệu nghệ thuật dẫn đến cách giảng bình lướt nhẹ trên văn bản! Xin nêu ra đây mấy trường hợp “hóc búa” của chi tiết.

“Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ”

Bài thơ “Tiếng hát con tàu”của nhà thơ Chế Lan Viên được chọn giảng trong chương trình văn học 12 khá dài (15 khổ thơ 4 câu ). Tài liệu chỉ đạo chuyên môn yêu cầu giảng kĩ 9 khổ đầu. Trên thực tế, hầu hết các bài giảng và đề kiểm tra, thi đều xoáy sâu vào năm khổ 5,6,7,8 và 9. Đây là đoạn thơ rất đặc sắc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và năng lực khái quát suy tưởng trong từng hình ảnh thơ, rất tiêu biểu cho những điểm sáng trong phong cách thơ Chế Lan Viên. Trong đoạn, các hình ảnh thơ như bừng nở dựa trên sức liên tưởng tuyệt vời của tác giả. Riêng tôi, rất tâm đắc với câu thơ thứ hai trong khổ thứ 7: “Con nhớ em con, thằng em liên lạc/ Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ/ Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc/ Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư”

Bằng hồi ức và cảm xúc sâu sắc, nhà thơ đã dựng lên một cách sống động hình ảnh em bé liên lạc ở Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Nhà thơ ngợi ca tinh thần trách nhiệm, ngợi ca tinh thần khẩn trương hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giao liên, một nhiệm vụ đòi hỏi nghiêm ngặt sự nhanh chóng, kịp thời, an toàn, bí mật. Trong khổ, câu thơ hay nhất, giàu chất sống trực tiếp nhất là câu thơ thứ hai “Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ”.

Không có sự từng trải, khó cảm nhận thấm thía cái hay của câu thơ. Bởi vì, hành quân ở rừng núi thời chiến tranh nói chung phải rất khẩn trương và an toàn. Muốn vậy phải đi nhanh, phải đi từng người một không đựơc tụm năm tụm bảy; người cách người phải xa để tránh tổn thất lớn khi bị nổ mìn hoặc bị phục kích. Mặt khác, qua quãng rừng thưa hay trảng cỏ phải giãn đội hình ra thật thưa; phải vận động thật nhanh để tránh thế bất lợi. Vả lại, ở quãng rừng thưa người đi sau dễ dõi theo người đi trước, không sợ lạc. “Rừng thưa em băng” là vì thế. Nó nói lên tính chất khẩn trương của công tác giao liên, hô ứng chặt chẽ với câu thơ thứ ba “Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc” (câu thơ sử dụng hai vần lưng : Na – qua; khiến nhịp thơ ngắn lại diễn tả được bước chân thoăn thoắt như thoi của em bé). Còn vế “Rừng rậm em chờ” thể hiện sự chu đáo của em bé liên lạc vì giữa rừng rậm người đi sau rất dễ bị mất dấu người đi trước, rất dễ lạc. mà lạc giữa rừng rậm thì vô cùng bất lợi. Đủ thấy em bé ở đây thật dày dạn kinh nghiệm giao liên; chu đáo trách nhiệm biết bao nhiêu. Không trải thực tế không thể viết nổi câu thơ tưởng chừng đơn giản ấy... Những câu thơ bằng chi tiết thực và sự chiêm nghiệm như thế đã góp thêm kinh nghiệm sống cho người đọc.

“Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam

Khổ thơ thứ 6 trong bài “Sóng” của nhà thơ nữ Xuân Quỳnh: Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương” bao gồm nhưng câu được kiến tạo theo quan hệ tăng tiến – nhượng bộ thể hiện “sự kiên định trên lập trường tình yêu và đề cao tuyệt đối lòng chung thuỷ” Nhiều tác giả các bài phân tích, bình giảng bài thơ đã phát hiện: Bình thường người ta nói ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam nhưng Xuân Quỳnh đã nói ngược lại. Xin được dẫn ra đây mấy ý kiến tiêu biểu:

- “Đối với nhà thơ nữ này, dù có xáo trộn một tí thì điều đó cũng chẳng có gì là quan trọng. Quan trọng nhất chỉ là “phương anh” dù ở đâu em cũng hướng về. Nếu nói đến sự quyết liệt của tình yêu Xuân Quỳnh thì khổ thơ này là dẫn chứng tiêu biểu nhất”.

- “Người ta thường nói xuôi về Nam, ngược về Bắc là bởi vì nói chung địa thế phương Bắc nước ta cao hơn miền Nam. Xuân Quỳnh là người miền Bắc, người yêu tác giả là người miền Nam, phải chăng vì thế mà xuôi ngược đã thay đổi phương vị”.

Từ cách lí giải khác nhau, cách hiểu ý nghĩa biểu hiện của khổ thơ cũng khác nhau. Người thì cho khổ thơ “chứa đựng thật nhiều thách thức – thách thức với hoàn cảnh và thách thức với cả tình anh nữa”. Người lại cho rằng “Không gian tình yêu có phương vị riêng của nó. Không phải Đông, Tây, Nam, Bắc mà là phương anh, phương em. Cái la bàn trái tim chỉ có một hướng ấy”. Ý kiến khác thì hiểu rằng: “Hai chữ xuôi ngược thấp thỏm một tai hoạ trước cuộc đời bất trắc”.

Theo chúng tôi, cách nói của nữ sĩ chỉ ngược với thói quen xác định phương hướng theo bản đồ địa lí. Vẫn có cách nhìn không thấy ngược. Thật vậy, tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968) là kết quả của những chuyến đi lặn lội và các vùng tuyến lửa Vĩnh Linh, Quảng Bình và đường 559". Sóng là bài thơ tình duy nhất trong tập thơ ấy, viết tại Diêm Điền (Thái Bình ) cuối năm 1967. Ai cũng biết, ở thời điểm này cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra quyết liệt. Miền Nam khẩn trương chuẩn bị tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân(1968. Tính đến lúc bây giờ, hàng chục vạn thanh niên miền Bắc “Xẻ dọc Trường Sơn” vào chiến trường Miền Nam. Miền Nam là tiến tuyến lớn, Miền Bắc, dù phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mĩ, là hậu phương lớn của Tổ quốc. Hậu phương chẳng phải là nơi dành cho đôi lứa hay sao! Vậy cách nói “Dẫu xuôi về phương Bắc” (dễ dàng, thuận lợi như xuôi dòng nước) là xuôi về hậu phương để gần nhau, có nhau hay dù phải ngược ra tiền tuyến (ngược về phương Nam) đầy thử thách khốc liệt thì em cũng không chùn bước, nản lòng.

Hiểu như thế, ta đã lồng ghép được bối cảnh ra đời của bài thơ để hiểu thơ; để thêm hiểu ý nghĩa điển hình của khát vọng thuỷ chung. Khát vọng ấy đâu chỉ riêng Xuân Quỳnh mà còn là của hết bao người yêu, người vợ trên miền Bắc hậu phương ngày đêm hướng về người yêu, người chồng đang chiến đấu trên tiền tuyến lớn Miền Nam. Do đó, “Sóng” đã nói hộ nỗi lòng bao thiếu nữ, phụ nữ tạo ra sức “đồng cảm mãnh liệt và quảng đại” như những áng văn chương giá trị xưa nay.

4)Đào Duy Từ (xem DANHNHANVIET chuyên mục Đào Duy Từ)

5)Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quang Khải (DANHNHANVIET, Wikipedia tiếng Việt, thành_viên: dayvahoc các chuyên mục đang thực hiện)

6)Trần Thái Bình 2007. Võ Nguyên Giáp trong cuộc trường chinh thế kỷ. Nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn, 819 trang.

7) Tổng tập Võ Nguyên Giáp.

Người theo dõi