Lưu trữ Blog

29 tháng 11, 2009

Đọc lại và suy ngẫm


HOCMOINGAY. Tên tuổi Võ Nguyên Giáp gắn liền với trận Điện Biên Phủ, kết thúc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam, một chiến thắng làm rung động địa cầu. Napoleon chết ở tuổi 52, còn Võ Nguyên Giáp vẫn sống tỉnh táo khỏe mạnh cho đến bây giờ ở tuổi 99. Tuy sống chết là số mạng nhưng người thông minh nhân hậu, có cuộc sống chừng mực, quân bình, thường sống rất lâu (đọc Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ của Hồng Cư và Đặng Bích Hà). Trong các danh nhân Việt Nam chỉ có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống lâu trên 90 tuổi. Những giờ rảnh rỗi trong bệnh viện, tôi mang tập Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra đọc. Một bác sĩ người Mỹ đi qua trông thấy bìa sách, kêu lên “Ồ, Võ Nguyên Giáp”. Tôi hỏi: “Ông cũng biết Võ Nguyên Giáp à?”. Ông trả lời: “Tôi biết chứ: Việt Nam, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp”. Cho đến bây giờ, đó vẫn là một thực tế. Tư liệu về đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Tạp chí Hồn Việt (Ảnh: Phút rảnh rỗi của vợ chồng Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

Bùi Duy Tâm (California),
Nguyên Khoa trưởng Khoa Y - Đại học Huế trước năm 1975.
(Bài viết phản ánh cách nhìn riêng của tác giả.)
Tạp chí Hồn Việt

1) Bốn tập Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một pho lịch sử chiến tranh rất hấp dẫn và rất thuyết phục với nhiều tài liệu đối chiếu của hai bên. Mọi chiến dịch đều được chuẩn bị và nghiên cứu kỹ càng về địa dư, nhân văn, hậu cần, tâm lý, tinh thần của địch và ta. Đọc Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng say mê như đọc Tam quốc. Cũng như Khổng Minh, Võ Nguyên Giáp rất thận trọng việc bày binh bố trận, đồng thời chăm sóc đến cả việc ăn ở của binh sĩ.

2) Đọc Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngoài chiến tranh trận mạc, độc giả còn biết được tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tuyệt đại đa số các vị chỉ huy quân sự Việt Nam xuất phát từ mọi tầng lớp xã hội, do lòng yêu nước đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, chưa hề tốt nghiệp tại một trường võ bị nào, vừa đánh vừa học. Chiến trường Việt Nam quả là một trường đại học quân sự (mà vị hiệu trưởng đầu tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp) đã đào tạo biết bao danh tướng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng khó khăn, khốc liệt sau này.

3) Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã vẽ lại chân dung tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhìn xa trông rộng, suy đoán được việc tương lai, nắm được thời cơ thuận lợi, dụng nhân như dụng mộc, tài giỏi bản lãnh hơn Lưu Bị thời Tam Quốc. Bản đồ thế giới bị vẽ lại nhiều lần trong lịch sử nhân loại, nhiều quốc gia bị thêm bớt sau mỗi cuộc chiến. Nếu không có sự quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì rất có thể miền Nam Việt Nam đã thành “Nam Kỳ tự trị”, một đứa con hoang quái dị của Tây. Trên bàn hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt việc “Nam Bộ không thể tách rời Việt Nam” là điều kiện tiên quyết. “Gian khó thì gian khó, cố níu lấy Nam Bộ” (đọc lại thơ Hồ Xuân Hương: “Thua thì thua, cố níu lấy con”). Chủ tịch Hồ Chí Minh có công đầu trong việc giữ toàn vẹn lãnh thổ. Đổi tên Sài Gòn thành TP. Hồ Chí Minh là một việc rất chuẩn và rất xứng đáng. Khác với các lãnh tụ Cộng sản Liên Xô (Stalin) và Trung Quốc (Mao Trạch Đông), Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam luôn chủ trương “Độc lập dân tộc” là trên hết nên Người kịp thời ngưng việc Đấu tố Cải cách ruộng đất theo màu Trung Quốc. Nếu không, chưa chắc Việt Nam đã có chiến thắng Điện Biên Phủ.

4) Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã làm được ba quyết định rất khó khăn cho ông nhưng rất cơ bản cho cuộc kháng chiến:

- Trong Chiến dịch Biên Giới, đổi mục tiêu tấn công từ Cao Bằng chuyển qua Đông Khê sau khi trinh sát quân báo, hậu cần, kế hoạch đã sửa soạn xong cho mục tiêu Cao Bằng.

- Trong Chiến dịch Hòa Bình, quân đội Việt Nam vẫn nổ súng mặc dầu cố vấn Trung Quốc không đồng ý từ đầu đến cuối.

- Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ vài giờ trước khi nổ súng theo kế hoạch “Đánh nhanh thắng nhanh” của cố vấn Trung Quốc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thuyết phục được Vi Quốc Thanh, ban cố vấn Trung Quốc và các binh tướng của ông để đổi sang kế hoạch “Đánh chắc thắng chắc” và hoãn cuộc tấn công lại cả tháng trời. Đại tướng Lê Trọng Tấn sau này đã nhận xét: “Nếu không có thay đổi trên, cuộc kháng chiến có thể phải chậm mất mười năm”.

Cả ba quyết định trên đã đem lại những chiến thắng quyết định cho cuộc kháng chiến và cho ta thấy:

Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị Tổng tư lệnh rất đắn đo, tùy thời biến dịch và rất quyết liệt khi cần. Vai trò của cố vấn Trung Quốc hoàn toàn giới hạn ở cương vị cố vấn. Khác hẳn với quân đội miền Nam, đã thất bại thảm khốc vì phải phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định của Mỹ.

5) Về mặt chiến công, người ta có thể so sánh Võ Nguyên Giáp của Việt Nam với Napoleon của nước Pháp. Cả hai được liệt vào hàng danh tướng của nhân loại. Nhưng Napoleon của nước Pháp xuất thân là một sĩ quan nhà nghề, Võ Nguyên Giáp của Việt Nam xuất thân là một giáo sư Sử học. Napoleon lãnh đạo một đoàn quân thiện chiến, võ trang đầy đủ, viễn chinh xâm lăng. Võ Nguyên Giáp dìu dắt một đoàn quân nhiệt tình yêu nước chưa thiện chiến với vũ khí thô sơ đứng lên chống ngoại xâm. Napoleon lập chiến tích với quyền uy của một vị Hoàng đế. Võ Nguyên Giáp thắng hai đế quốc bá chủ toàn cầu với cương vị rất khiêm nhường: “kính trên nhường dưới”. Cho đến khi thắng lợi hoàn toàn Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ có những phương tiện luôn luôn ở thế yếu kém, chưa bao giờ có được quân binh lực lượng. Tên tuổi Napoleon gắn liền với trận Waterloo, một chiến bại kết thúc sự nghiệp lẫy lừng của một vị Đại đế Châu Âu. Tên tuổi Võ Nguyên Giáp gắn liền với trận Điện Biên Phủ, kết thúc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam, một chiến thắng làm rung động địa cầu. NapoleOn chết ở tuổi 52, còn Võ Nguyên Giáp vẫn sống tỉnh táo khỏe mạnh cho đến bây giờ ở tuổi 99. Tuy sống chết là số mạng nhưng người thông minh nhân hậu, có cuộc sống chừng mực, quân bình, thường sống rất lâu (đọc Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ của Hồng Cư và Đặng Bích Hà). Trong các danh nhân Việt Nam chỉ có Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống lâu trên 90 tuổi. Những giờ rảnh rỗi trong bệnh viện, tôi mang tập Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra đọc Một bác sĩ người Mỹ đi qua trông thấy bìa sách, kêu lên “Ồ, Võ Nguyên Giáp”. Tôi hỏi: “Ông cũng biết Võ Nguyên Giáp à?”. Ông trả lời: “Tôi biết chứ: Việt Nam, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp”. Cho đến bây giờ, đó vẫn là một thực tế.

Nguồn: Tạp chí Hồn Việt

TS. Vũ Quang Việt và Ông Võ Văn Kiệt


HOCMOINGAY. Tháng 3 năm 2008, trong một buổi làm việc thường lệ, ông trở nên trầm lặng. Thời điểm ấy, lạm phát tăng cao, một trong những nguyên nhân lạm phát là do nền kinh tế vận hành không hiệu quả. Khu vực làm ăn không hiệu quả nhất lại chính là khối kinh tế quốc doanh, khối kinh tế tồn tại với vai trò “định hướng”. Khó có một nghiên cứu nào phân tích vấn đề này sâu hơn công trình nói trên của nhóm TS Vũ Quang Việt, tôi không nhắc lại những con số, chỉ muốn nhắc lại lời ông Kiệt: “Chính vì sợ ‘chệch’ cái ‘hướng’ ấy mà chúng ta đã không tận dụng được thời cơ để bứt lên, cải thiện tình hình”.

Huy Đức
Nguồn: Blog Osin
(Bài viết phản ánh cách nhìn riêng của tác giả.)

Chiều ngày 23-11-2009, tôi xuống Vĩnh Long lang thang trong vườn nhà ông Võ Văn Kiệt ở ấp Bình Phụng. Ngay từ khi nghỉ hưu, 2001, ông Võ Văn Kiệt đã muốn xây một ngôi nhà nhỏ trên cái nền nhà cũ ấy để có chỗ thắp nén nhang cho những người đã sinh ra 8 anh em ông. Nhưng, mãi tới cuối năm 2007, ông mới cho đặt lên ở đấy một “mái che” mấy năm sau khi đình làng được sửa. Không phải là vấn đề tiền bạc, cái ấp mà từ đó, năm 1940 ông đi làm Cách mạng, nay về lại và nhận ra là nó vẫn quá nghèo. Gia đình các anh, các chị, các cháu của ông vẫn sống ở đó trong những căn nhà đơn sơ như lối xóm. Tôi đứng khá lâu trước một phiến đá nhỏ khắc chữ của ông: “Nơi đây, mẹ đã sinh ra chúng con”. Bên cạnh đó là một tấm bia nhỏ ghi tên tuổi những người thân và tên ông, viết như những người anh em nông dân khác.

Khi trở lại Sài Gòn, ngồi trước máy, đọc được công trình nghiên cứu của nhóm chuyên gia người Việt do TS Vũ Quang Việt chủ biên: Khủng Hoảng Kinh Tế Việt Nam 2008, Sự Sai Lầm Về Chính Sách và Vai Trò Của Tập Đoàn Kinh tế Quốc Doanh. Công trình được công bố trên Southeast Asian Affairs 2009; bản gốc tiếng Việt đăng trên tapchithoidai.org. Sau khi phân tích những nguyên nhân đem tới khủng hoảng kinh tế Việt Nam 2008, trong đó có những đầu tư thiếu hiệu quả cho các tập đoàn kinh tế nhà nước do chính Thủ tướng chỉ đạo trực tiếp, TS Vũ Quang Việt viết: “Những người chỉ trích Thủ tướng cũng không nghĩ ra cách quản lý tốt hơn các tập đoàn quốc doanh khi mà việc xây dựng doanh nghiệp nhà nước đã được coi là quốc sách”. Câu kết luận của TS Vũ Quang Việt khiến tôi nhớ lại những trăn trở cuối đời của ông Võ Văn Kiệt: duy trì lực lượng quốc doanh như hiện nay không chỉ dẫn tới khủng hoảng nhất thời mà còn là tác nhân sâu xa của cái nghèo không chỉ ở quê ông, Bình Phụng.

Tháng 3 năm 2008, trong một buổi làm việc thường lệ, ông trở nên trầm lặng. Thời điểm ấy, lạm phát tăng cao, một trong những nguyên nhân lạm phát là do nền kinh tế vận hành không hiệu quả. Khu vực làm ăn không hiệu quả nhất lại chính là khối kinh tế quốc doanh, khối kinh tế tồn tại với vai trò “định hướng”. Khó có một nghiên cứu nào phân tích vấn đề này sâu hơn công trình nói trên của nhóm TS Vũ Quang Việt, tôi không nhắc lại những con số, chỉ muốn nhắc lại lời ông Kiệt: “Chính vì sợ ‘chệch’ cái ‘hướng’ ấy mà chúng ta đã không tận dụng được thời cơ để bứt lên, cải thiện tình hình”.

Tháng 9-1995, ông Võ Văn Kiệt phát biểu: “Nếu chúng ta cho rằng kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo là một tiêu chí của định hướng xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu phấn đấu của dân tộc ta, thì hoàn toàn không đúng”. Khi đó ông đề nghị, để tránh nguy cơ tụt hậu, Việt Nam phải xây dựng một nền kinh tế tuân thủ các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Nhưng, như ông Lê Văn Triết, Bộ trưởng Thương mại của ông thời đó cho biết, những dự định ấy bị coi là “chệch hướng” và ngay trong lĩnh vực thương mại, khuynh hướng “tự do kinh doanh” mà Chính phủ chủ trương đã phải xếp lại để “xây dựng quốc doanh, kiên quyết không cho tư thương đẩy lùi trận địa”.

Năm 2005, ông Võ Văn Kiệt nhìn lại: “Thay vì từ sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô mà rút ra bài học, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn, triệt để hơn nhằm khắc phục những khuyết tật của mô hình quan liêu bao cấp dẫn đến sự suy kiệt của nền kinh tế, thì… với cái vỏ bọc của lập trường quan điểm, khuynh hướng “tả” đã kìm hãm tiến trình đổi mới mà Đại hội VI đã khởi động”. Ông nói, thật xót xa khi những người lo cho dân và bị coi là “hữu” như Kim Ngọc thì phải chịu kỷ luật còn những người người “tả”, đánh mất cơ hội phát triển của dân tộc thì chưa bao giờ phải kiểm điểm gì. Nhưng, điều đáng lo hơn, “định hướng” nếu như đã từng là “vỏ bọc của lập trường” đang tự diễn biến để trở thành “vỏ bọc của đặc quyền, đặc lợi”.

TS Nguyễn An Nguyên ( năm 2005 là nghiên cứu sinh ở đại học Rice) có lẽ là người đầu tiên khuyến cáo trên báo chí Việt Nam về sự chi phối chính sách của các nhóm lợi ích (interest groups). Tuy nhiên, nếu như các nhóm lợi ích được hình thành trong một xã hội dân sự minh bạch thì tác động của nó sẽ là bình thường; nếu các nhóm lợi ích ấy hoạt động âm thầm trong điều kiện có những chính sách có thể ký tá tại nhà thì không còn là “lợi ích” nữa mà là các nhóm đặc quyền đặc lợi (từ privileged groups đến syndication of privileged groups). Lợi ích quốc gia sẽ càng dễ dàng bị đe dọa khi những nhóm như vậy được phụ trách bởi một vài người. Trước những nhóm nhiều đặc lợi và có không ít đặc quyền, quyền quản lý họ rất dễ trở thành “rơm” và thậm chí có thể trở thành “con tin” của họ.

Công trình nghiên cứu của TS Vũ Quang Việt đã thu thập đầy đủ bằng chứng để chỉ ra thủ phạm của tình trạng lạm phát, của sự phát triển mất cân đối và không hiệu quả. Và, ông cũng đã có lý khi nhận xét, không ai có thể nghĩ ra cách quản lý tốt tập đoàn quốc doanh “khi mà việc xây dựng doanh nghiệp nhà nước đã được coi là quốc sách”. Ngay từ tháng 3-2008, ông Võ Văn Kiệt đã muốn nói ra một cách thẳng thắn thang thuốc đặc trị tình trạng này, một thang thuốc bắt đầu từ “Cương lĩnh”. Trước khi đi Hà Nội sau vụ “hai nhà báo bị bắt” ông đã trao đổi khá lâu và, ngày 21-5-2008, khi trở lại Sài Gòn, ông gọi điện thoại ngay cho tôi. Khi đó, tôi đang ở An Giang nên cuộc gặp được dời lại vào chiều 23-5-2008. Hôm ấy, ông đang bị cảm, đôi khi có vẻ như khó thở, nhưng câu chuyện vẫn kéo tới gần hết buổi chiều. Đó là buổi làm việc cuối cùng. Sáng 24-5-2008 ông vào viện rồi không bao giờ về nữa.

Có lẽ do trước khi rời Hà Nội, ông có tham gia đoàn các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước viếng lăng Hồ Chủ Tịch nên trong câu chuyện chiều ngày 23-5, ông nói: “Ai nghĩ, việc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đổi tên Đảng Cộng Sản thành Đảng Lao Động Việt Nam chỉ là sách lược thì không thực sự là ‘học trò’ của Hồ Chí Minh”. Năm 1951, ông Võ Văn Kiệt là đại biểu từ Nam Bộ được cử ra Việt Bắc dự Đại hội Đảng lần thứ II. Và, đúng như ông Việt Phương viết: “Hàng chục năm cuối đời, anh Sáu Dân (ông Võ Văn Kiệt) có những câu hỏi dằn vặt: Đại hội IV của Đảng năm 1976 quyết định đổi tên Đảng và đổi tên nước, là do những nguyên nhân nào”. Ông Kiệt nhìn nhận: “Cũng không thể đổ hết lỗi cho những người đứng đầu, bản thân những đại biểu như chúng tôi cũng về Đại hội IV như để dự một cuộc liên hoan mừng chiến thắng, thay vì ý thức đang quyết định những vấn đề làm thay đổi vận mệnh quốc gia, đất nước”.

Nhận thức, Đại hội không chỉ là sinh hoạt nội bộ của một đảng mà những quyết định ở đó còn ảnh hưởng đến số phận dân tộc, nên ông Võ Văn Kiệt muốn cảnh báo những sai lầm mà những đại biểu như ông đã từng gặp phải. Bắt đầu nắm trọn vẹn giang sơn kể từ năm 1975, ông Võ Văn Kiệt nhận thấy: “Đôi khi, chính tư duy ‘giáo điều’ đã chia rẽ dân tộc này; đã làm chậm tiến trình phát triển của đất nước này”. Khi đọc “Hồi Ký” của ông Lý Quang Diệu, thấy ông ấy viết, “Năm 1975, Thành phố Hồ Chí Minh có thể cạnh tranh ngang với Bangkok; còn năm 1992, tôi nghĩ, có lẽ nó đã tụt hậu 20 năm”, ông Võ Văn Kiệt nói, “Tôi đau không chịu được”. Điều cuối cùng mà ông Võ Văn Kiệt muốn góp tay “tháo gỡ” là những gì đang cản trở khả năng tập hợp sức mạnh của mọi người Việt Nam, những gì ràng buộc khiến cho các nguồn lực của quốc gia đang phải tập trung cho một khu vực hoạt động không hiệu quả. Ông nói: “Dân tộc trở thành một khối, quốc gia mạnh giàu, mới là định hướng tối cao”. Ông đề nghị để thực sự “học tập Hồ Chí Minh”, câu hỏi vì sao năm 1945, Cụ Hồ đã chọn tên nước là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và, năm 1951, đã đổi tên Đảng là Đảng Lao Động, nên được đưa ra thảo luận.

Tôi tin là ông đã rất tiếc khi chưa kịp gửi tới các nhà lãnh đạo những suy nghĩ nói trên và điều đó cứ đeo đuổi tôi hơn một năm qua, nhất là từ hôm đứng trong vườn nhà ông ở ấp Bình Phụng.


NHỮNG BÀI LIÊN QUAN:
Day dứt nông trường sông Hậu
Khủng hoảng kinh tế Việt Nam 2008:sự sai lầm về chính sách và vai trò của tập đoàn kinh tế quốc doanh

Người theo dõi