Lưu trữ Blog

29 tháng 11, 2009

Đọc lại và suy ngẫm


HOCMOINGAY. Tên tuổi Võ Nguyên Giáp gắn liền với trận Điện Biên Phủ, kết thúc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam, một chiến thắng làm rung động địa cầu. Napoleon chết ở tuổi 52, còn Võ Nguyên Giáp vẫn sống tỉnh táo khỏe mạnh cho đến bây giờ ở tuổi 99. Tuy sống chết là số mạng nhưng người thông minh nhân hậu, có cuộc sống chừng mực, quân bình, thường sống rất lâu (đọc Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ của Hồng Cư và Đặng Bích Hà). Trong các danh nhân Việt Nam chỉ có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống lâu trên 90 tuổi. Những giờ rảnh rỗi trong bệnh viện, tôi mang tập Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra đọc. Một bác sĩ người Mỹ đi qua trông thấy bìa sách, kêu lên “Ồ, Võ Nguyên Giáp”. Tôi hỏi: “Ông cũng biết Võ Nguyên Giáp à?”. Ông trả lời: “Tôi biết chứ: Việt Nam, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp”. Cho đến bây giờ, đó vẫn là một thực tế. Tư liệu về đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Tạp chí Hồn Việt (Ảnh: Phút rảnh rỗi của vợ chồng Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

Bùi Duy Tâm (California),
Nguyên Khoa trưởng Khoa Y - Đại học Huế trước năm 1975.
(Bài viết phản ánh cách nhìn riêng của tác giả.)
Tạp chí Hồn Việt

1) Bốn tập Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một pho lịch sử chiến tranh rất hấp dẫn và rất thuyết phục với nhiều tài liệu đối chiếu của hai bên. Mọi chiến dịch đều được chuẩn bị và nghiên cứu kỹ càng về địa dư, nhân văn, hậu cần, tâm lý, tinh thần của địch và ta. Đọc Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng say mê như đọc Tam quốc. Cũng như Khổng Minh, Võ Nguyên Giáp rất thận trọng việc bày binh bố trận, đồng thời chăm sóc đến cả việc ăn ở của binh sĩ.

2) Đọc Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngoài chiến tranh trận mạc, độc giả còn biết được tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tuyệt đại đa số các vị chỉ huy quân sự Việt Nam xuất phát từ mọi tầng lớp xã hội, do lòng yêu nước đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, chưa hề tốt nghiệp tại một trường võ bị nào, vừa đánh vừa học. Chiến trường Việt Nam quả là một trường đại học quân sự (mà vị hiệu trưởng đầu tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp) đã đào tạo biết bao danh tướng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng khó khăn, khốc liệt sau này.

3) Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã vẽ lại chân dung tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhìn xa trông rộng, suy đoán được việc tương lai, nắm được thời cơ thuận lợi, dụng nhân như dụng mộc, tài giỏi bản lãnh hơn Lưu Bị thời Tam Quốc. Bản đồ thế giới bị vẽ lại nhiều lần trong lịch sử nhân loại, nhiều quốc gia bị thêm bớt sau mỗi cuộc chiến. Nếu không có sự quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì rất có thể miền Nam Việt Nam đã thành “Nam Kỳ tự trị”, một đứa con hoang quái dị của Tây. Trên bàn hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt việc “Nam Bộ không thể tách rời Việt Nam” là điều kiện tiên quyết. “Gian khó thì gian khó, cố níu lấy Nam Bộ” (đọc lại thơ Hồ Xuân Hương: “Thua thì thua, cố níu lấy con”). Chủ tịch Hồ Chí Minh có công đầu trong việc giữ toàn vẹn lãnh thổ. Đổi tên Sài Gòn thành TP. Hồ Chí Minh là một việc rất chuẩn và rất xứng đáng. Khác với các lãnh tụ Cộng sản Liên Xô (Stalin) và Trung Quốc (Mao Trạch Đông), Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam luôn chủ trương “Độc lập dân tộc” là trên hết nên Người kịp thời ngưng việc Đấu tố Cải cách ruộng đất theo màu Trung Quốc. Nếu không, chưa chắc Việt Nam đã có chiến thắng Điện Biên Phủ.

4) Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã làm được ba quyết định rất khó khăn cho ông nhưng rất cơ bản cho cuộc kháng chiến:

- Trong Chiến dịch Biên Giới, đổi mục tiêu tấn công từ Cao Bằng chuyển qua Đông Khê sau khi trinh sát quân báo, hậu cần, kế hoạch đã sửa soạn xong cho mục tiêu Cao Bằng.

- Trong Chiến dịch Hòa Bình, quân đội Việt Nam vẫn nổ súng mặc dầu cố vấn Trung Quốc không đồng ý từ đầu đến cuối.

- Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ vài giờ trước khi nổ súng theo kế hoạch “Đánh nhanh thắng nhanh” của cố vấn Trung Quốc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thuyết phục được Vi Quốc Thanh, ban cố vấn Trung Quốc và các binh tướng của ông để đổi sang kế hoạch “Đánh chắc thắng chắc” và hoãn cuộc tấn công lại cả tháng trời. Đại tướng Lê Trọng Tấn sau này đã nhận xét: “Nếu không có thay đổi trên, cuộc kháng chiến có thể phải chậm mất mười năm”.

Cả ba quyết định trên đã đem lại những chiến thắng quyết định cho cuộc kháng chiến và cho ta thấy:

Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị Tổng tư lệnh rất đắn đo, tùy thời biến dịch và rất quyết liệt khi cần. Vai trò của cố vấn Trung Quốc hoàn toàn giới hạn ở cương vị cố vấn. Khác hẳn với quân đội miền Nam, đã thất bại thảm khốc vì phải phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định của Mỹ.

5) Về mặt chiến công, người ta có thể so sánh Võ Nguyên Giáp của Việt Nam với Napoleon của nước Pháp. Cả hai được liệt vào hàng danh tướng của nhân loại. Nhưng Napoleon của nước Pháp xuất thân là một sĩ quan nhà nghề, Võ Nguyên Giáp của Việt Nam xuất thân là một giáo sư Sử học. Napoleon lãnh đạo một đoàn quân thiện chiến, võ trang đầy đủ, viễn chinh xâm lăng. Võ Nguyên Giáp dìu dắt một đoàn quân nhiệt tình yêu nước chưa thiện chiến với vũ khí thô sơ đứng lên chống ngoại xâm. Napoleon lập chiến tích với quyền uy của một vị Hoàng đế. Võ Nguyên Giáp thắng hai đế quốc bá chủ toàn cầu với cương vị rất khiêm nhường: “kính trên nhường dưới”. Cho đến khi thắng lợi hoàn toàn Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ có những phương tiện luôn luôn ở thế yếu kém, chưa bao giờ có được quân binh lực lượng. Tên tuổi Napoleon gắn liền với trận Waterloo, một chiến bại kết thúc sự nghiệp lẫy lừng của một vị Đại đế Châu Âu. Tên tuổi Võ Nguyên Giáp gắn liền với trận Điện Biên Phủ, kết thúc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam, một chiến thắng làm rung động địa cầu. NapoleOn chết ở tuổi 52, còn Võ Nguyên Giáp vẫn sống tỉnh táo khỏe mạnh cho đến bây giờ ở tuổi 99. Tuy sống chết là số mạng nhưng người thông minh nhân hậu, có cuộc sống chừng mực, quân bình, thường sống rất lâu (đọc Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ của Hồng Cư và Đặng Bích Hà). Trong các danh nhân Việt Nam chỉ có Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống lâu trên 90 tuổi. Những giờ rảnh rỗi trong bệnh viện, tôi mang tập Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra đọc Một bác sĩ người Mỹ đi qua trông thấy bìa sách, kêu lên “Ồ, Võ Nguyên Giáp”. Tôi hỏi: “Ông cũng biết Võ Nguyên Giáp à?”. Ông trả lời: “Tôi biết chứ: Việt Nam, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp”. Cho đến bây giờ, đó vẫn là một thực tế.

Nguồn: Tạp chí Hồn Việt

TS. Vũ Quang Việt và Ông Võ Văn Kiệt


HOCMOINGAY. Tháng 3 năm 2008, trong một buổi làm việc thường lệ, ông trở nên trầm lặng. Thời điểm ấy, lạm phát tăng cao, một trong những nguyên nhân lạm phát là do nền kinh tế vận hành không hiệu quả. Khu vực làm ăn không hiệu quả nhất lại chính là khối kinh tế quốc doanh, khối kinh tế tồn tại với vai trò “định hướng”. Khó có một nghiên cứu nào phân tích vấn đề này sâu hơn công trình nói trên của nhóm TS Vũ Quang Việt, tôi không nhắc lại những con số, chỉ muốn nhắc lại lời ông Kiệt: “Chính vì sợ ‘chệch’ cái ‘hướng’ ấy mà chúng ta đã không tận dụng được thời cơ để bứt lên, cải thiện tình hình”.

Huy Đức
Nguồn: Blog Osin
(Bài viết phản ánh cách nhìn riêng của tác giả.)

Chiều ngày 23-11-2009, tôi xuống Vĩnh Long lang thang trong vườn nhà ông Võ Văn Kiệt ở ấp Bình Phụng. Ngay từ khi nghỉ hưu, 2001, ông Võ Văn Kiệt đã muốn xây một ngôi nhà nhỏ trên cái nền nhà cũ ấy để có chỗ thắp nén nhang cho những người đã sinh ra 8 anh em ông. Nhưng, mãi tới cuối năm 2007, ông mới cho đặt lên ở đấy một “mái che” mấy năm sau khi đình làng được sửa. Không phải là vấn đề tiền bạc, cái ấp mà từ đó, năm 1940 ông đi làm Cách mạng, nay về lại và nhận ra là nó vẫn quá nghèo. Gia đình các anh, các chị, các cháu của ông vẫn sống ở đó trong những căn nhà đơn sơ như lối xóm. Tôi đứng khá lâu trước một phiến đá nhỏ khắc chữ của ông: “Nơi đây, mẹ đã sinh ra chúng con”. Bên cạnh đó là một tấm bia nhỏ ghi tên tuổi những người thân và tên ông, viết như những người anh em nông dân khác.

Khi trở lại Sài Gòn, ngồi trước máy, đọc được công trình nghiên cứu của nhóm chuyên gia người Việt do TS Vũ Quang Việt chủ biên: Khủng Hoảng Kinh Tế Việt Nam 2008, Sự Sai Lầm Về Chính Sách và Vai Trò Của Tập Đoàn Kinh tế Quốc Doanh. Công trình được công bố trên Southeast Asian Affairs 2009; bản gốc tiếng Việt đăng trên tapchithoidai.org. Sau khi phân tích những nguyên nhân đem tới khủng hoảng kinh tế Việt Nam 2008, trong đó có những đầu tư thiếu hiệu quả cho các tập đoàn kinh tế nhà nước do chính Thủ tướng chỉ đạo trực tiếp, TS Vũ Quang Việt viết: “Những người chỉ trích Thủ tướng cũng không nghĩ ra cách quản lý tốt hơn các tập đoàn quốc doanh khi mà việc xây dựng doanh nghiệp nhà nước đã được coi là quốc sách”. Câu kết luận của TS Vũ Quang Việt khiến tôi nhớ lại những trăn trở cuối đời của ông Võ Văn Kiệt: duy trì lực lượng quốc doanh như hiện nay không chỉ dẫn tới khủng hoảng nhất thời mà còn là tác nhân sâu xa của cái nghèo không chỉ ở quê ông, Bình Phụng.

Tháng 3 năm 2008, trong một buổi làm việc thường lệ, ông trở nên trầm lặng. Thời điểm ấy, lạm phát tăng cao, một trong những nguyên nhân lạm phát là do nền kinh tế vận hành không hiệu quả. Khu vực làm ăn không hiệu quả nhất lại chính là khối kinh tế quốc doanh, khối kinh tế tồn tại với vai trò “định hướng”. Khó có một nghiên cứu nào phân tích vấn đề này sâu hơn công trình nói trên của nhóm TS Vũ Quang Việt, tôi không nhắc lại những con số, chỉ muốn nhắc lại lời ông Kiệt: “Chính vì sợ ‘chệch’ cái ‘hướng’ ấy mà chúng ta đã không tận dụng được thời cơ để bứt lên, cải thiện tình hình”.

Tháng 9-1995, ông Võ Văn Kiệt phát biểu: “Nếu chúng ta cho rằng kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo là một tiêu chí của định hướng xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu phấn đấu của dân tộc ta, thì hoàn toàn không đúng”. Khi đó ông đề nghị, để tránh nguy cơ tụt hậu, Việt Nam phải xây dựng một nền kinh tế tuân thủ các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Nhưng, như ông Lê Văn Triết, Bộ trưởng Thương mại của ông thời đó cho biết, những dự định ấy bị coi là “chệch hướng” và ngay trong lĩnh vực thương mại, khuynh hướng “tự do kinh doanh” mà Chính phủ chủ trương đã phải xếp lại để “xây dựng quốc doanh, kiên quyết không cho tư thương đẩy lùi trận địa”.

Năm 2005, ông Võ Văn Kiệt nhìn lại: “Thay vì từ sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô mà rút ra bài học, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn, triệt để hơn nhằm khắc phục những khuyết tật của mô hình quan liêu bao cấp dẫn đến sự suy kiệt của nền kinh tế, thì… với cái vỏ bọc của lập trường quan điểm, khuynh hướng “tả” đã kìm hãm tiến trình đổi mới mà Đại hội VI đã khởi động”. Ông nói, thật xót xa khi những người lo cho dân và bị coi là “hữu” như Kim Ngọc thì phải chịu kỷ luật còn những người người “tả”, đánh mất cơ hội phát triển của dân tộc thì chưa bao giờ phải kiểm điểm gì. Nhưng, điều đáng lo hơn, “định hướng” nếu như đã từng là “vỏ bọc của lập trường” đang tự diễn biến để trở thành “vỏ bọc của đặc quyền, đặc lợi”.

TS Nguyễn An Nguyên ( năm 2005 là nghiên cứu sinh ở đại học Rice) có lẽ là người đầu tiên khuyến cáo trên báo chí Việt Nam về sự chi phối chính sách của các nhóm lợi ích (interest groups). Tuy nhiên, nếu như các nhóm lợi ích được hình thành trong một xã hội dân sự minh bạch thì tác động của nó sẽ là bình thường; nếu các nhóm lợi ích ấy hoạt động âm thầm trong điều kiện có những chính sách có thể ký tá tại nhà thì không còn là “lợi ích” nữa mà là các nhóm đặc quyền đặc lợi (từ privileged groups đến syndication of privileged groups). Lợi ích quốc gia sẽ càng dễ dàng bị đe dọa khi những nhóm như vậy được phụ trách bởi một vài người. Trước những nhóm nhiều đặc lợi và có không ít đặc quyền, quyền quản lý họ rất dễ trở thành “rơm” và thậm chí có thể trở thành “con tin” của họ.

Công trình nghiên cứu của TS Vũ Quang Việt đã thu thập đầy đủ bằng chứng để chỉ ra thủ phạm của tình trạng lạm phát, của sự phát triển mất cân đối và không hiệu quả. Và, ông cũng đã có lý khi nhận xét, không ai có thể nghĩ ra cách quản lý tốt tập đoàn quốc doanh “khi mà việc xây dựng doanh nghiệp nhà nước đã được coi là quốc sách”. Ngay từ tháng 3-2008, ông Võ Văn Kiệt đã muốn nói ra một cách thẳng thắn thang thuốc đặc trị tình trạng này, một thang thuốc bắt đầu từ “Cương lĩnh”. Trước khi đi Hà Nội sau vụ “hai nhà báo bị bắt” ông đã trao đổi khá lâu và, ngày 21-5-2008, khi trở lại Sài Gòn, ông gọi điện thoại ngay cho tôi. Khi đó, tôi đang ở An Giang nên cuộc gặp được dời lại vào chiều 23-5-2008. Hôm ấy, ông đang bị cảm, đôi khi có vẻ như khó thở, nhưng câu chuyện vẫn kéo tới gần hết buổi chiều. Đó là buổi làm việc cuối cùng. Sáng 24-5-2008 ông vào viện rồi không bao giờ về nữa.

Có lẽ do trước khi rời Hà Nội, ông có tham gia đoàn các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước viếng lăng Hồ Chủ Tịch nên trong câu chuyện chiều ngày 23-5, ông nói: “Ai nghĩ, việc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đổi tên Đảng Cộng Sản thành Đảng Lao Động Việt Nam chỉ là sách lược thì không thực sự là ‘học trò’ của Hồ Chí Minh”. Năm 1951, ông Võ Văn Kiệt là đại biểu từ Nam Bộ được cử ra Việt Bắc dự Đại hội Đảng lần thứ II. Và, đúng như ông Việt Phương viết: “Hàng chục năm cuối đời, anh Sáu Dân (ông Võ Văn Kiệt) có những câu hỏi dằn vặt: Đại hội IV của Đảng năm 1976 quyết định đổi tên Đảng và đổi tên nước, là do những nguyên nhân nào”. Ông Kiệt nhìn nhận: “Cũng không thể đổ hết lỗi cho những người đứng đầu, bản thân những đại biểu như chúng tôi cũng về Đại hội IV như để dự một cuộc liên hoan mừng chiến thắng, thay vì ý thức đang quyết định những vấn đề làm thay đổi vận mệnh quốc gia, đất nước”.

Nhận thức, Đại hội không chỉ là sinh hoạt nội bộ của một đảng mà những quyết định ở đó còn ảnh hưởng đến số phận dân tộc, nên ông Võ Văn Kiệt muốn cảnh báo những sai lầm mà những đại biểu như ông đã từng gặp phải. Bắt đầu nắm trọn vẹn giang sơn kể từ năm 1975, ông Võ Văn Kiệt nhận thấy: “Đôi khi, chính tư duy ‘giáo điều’ đã chia rẽ dân tộc này; đã làm chậm tiến trình phát triển của đất nước này”. Khi đọc “Hồi Ký” của ông Lý Quang Diệu, thấy ông ấy viết, “Năm 1975, Thành phố Hồ Chí Minh có thể cạnh tranh ngang với Bangkok; còn năm 1992, tôi nghĩ, có lẽ nó đã tụt hậu 20 năm”, ông Võ Văn Kiệt nói, “Tôi đau không chịu được”. Điều cuối cùng mà ông Võ Văn Kiệt muốn góp tay “tháo gỡ” là những gì đang cản trở khả năng tập hợp sức mạnh của mọi người Việt Nam, những gì ràng buộc khiến cho các nguồn lực của quốc gia đang phải tập trung cho một khu vực hoạt động không hiệu quả. Ông nói: “Dân tộc trở thành một khối, quốc gia mạnh giàu, mới là định hướng tối cao”. Ông đề nghị để thực sự “học tập Hồ Chí Minh”, câu hỏi vì sao năm 1945, Cụ Hồ đã chọn tên nước là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và, năm 1951, đã đổi tên Đảng là Đảng Lao Động, nên được đưa ra thảo luận.

Tôi tin là ông đã rất tiếc khi chưa kịp gửi tới các nhà lãnh đạo những suy nghĩ nói trên và điều đó cứ đeo đuổi tôi hơn một năm qua, nhất là từ hôm đứng trong vườn nhà ông ở ấp Bình Phụng.


NHỮNG BÀI LIÊN QUAN:
Day dứt nông trường sông Hậu
Khủng hoảng kinh tế Việt Nam 2008:sự sai lầm về chính sách và vai trò của tập đoàn kinh tế quốc doanh

27 tháng 11, 2009

Thầy Lương Định Của và tính tình Người Nam Bộ.



HOCMOINGAY. Thầy Lương Định Của là một trí thức lớn đã từ bỏ điều kiện sống và làm việc hiện đại ở Nhật Bản, nơi thầy đã có những công trình nghiên cứu nổi tiếng về di truyền để tìm cách về nước. Lúc đầu thầy đưa gia đình về miền Nam. Thầy lại từ chối quyền cao chức trọng, bổng lộc, giầu sang, vượt mọi gian khổ ra miền Bắc tham gia kháng chiến chống ngọai xâm. Họat động nghiên cứu của thầy chủ yếu tại nông thôn đủ thứ thiếu thôn; đối tượng nghiên cứu của thầy chủ yếu là những biện pháp kỹ thuật mà nông dân dễ tiếp thu, dễ mang lại hiệu quả tức thì, như làm bờ vùng bờ thừa, trang phẳng ruộng, cấy ngửa tay, thẳng hàng, dùng giống lúa địa phương và những giống lúa thầy cùng cộng sự chúng tôi chọn tạo ra. Tên những giống lúa thầy đặt cũng là một thể hiện sự hòa nhập với cộng đồng lúc đó, như giống lúa Đoàn kết, Thắng lợi. (Vợ chồng giáo sư Lương Định Của: ảnh tư liệu gia đình )


Khi còn là sinh viên (1956-60), tôi đã biết Người Nam Bộ qua bạn học tập kết ra Bắc, và nhất là qua thầy Lương Định Của, anh hùng lao động, giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1, đến nay đã có khá nhiều tên đường, tên trường mang tên Lương Định Của. Đối với lũ học trò hậu sinh chúng tôi, thầy cũng luôn cởi mở, rộng lượng, hài hước, hào hiệp, trung thực, và cả dũng cảm nữa. Một thể hiện điều đó là khi chúng tôi giảng dậy môn di truyền chọn tạo giống, thầy đã giảng dậy học thuyết di truyền học Mangan, hiện đại (hồi đó bị cấm, chỉ được dậy học thuyết Lưxenkô, về sau bị phát hiện là giả dối, bịa số liệu). Thầy thường dậy chúng tôi phải sáng tạo, không được bắt chước như loai khỉ, và kể nhiều chuyện tiếu lâm hài hước minh họa, như chuyện không bắt chước máy móc trong họat động tình dục mà "dụng cụ" thì bị thương, người thì phải đi bệnh viện.

Từ bỏ điều kiện sống và làm việc hiện đại ở Nhật Bản, nơi thầy đã có những công trình nghiên cứu nổi tiếng về di truyền, thầy đã tìm cách về nước. Lúc đầu thầy đưa gia đình về miền Nam. Thầy lại từ chối nhận quyền cao chức trọng, nhiều bổng lộc, giầu sang, vượt mọi gian khổ ra Bắc tham gia kháng chiến chống ngọai xâm

Họat động nghiên cứu của thầy chủ yếu tại nông thôn đủ thứ thiếu thôn; đối tượng nghiên cứu của thầy chủ yếu là những biện pháp kỹ thuật mà nông dân dễ tiếp thu, dễ mang lại hiệu quả tức thì, làm như bờ vùng bờ thừa, trang phẳng ruộng, cấy ngửa ta, thẳng hàng, dùng giống lúa địa phương và những giống lúa thầy cùng cộng sự chúng tôi tạo chọn ra. Tên những giống lúa thầy đặt cũng là một thể hiện sự hòa nhập với cộng đồng lúc đó, như giống lúa Đòan kết, Thắng lợi, .. Một thể hiện tính tình người Nam bộ của thầy có tác dụng lớn đến sản xuất lúa ở những năm 60, 70 của thế kỷ trước, các hợp tác xã ở miền Bắc kẻ khẩu hiệu do thầy khuyến cáo: "Ruộng không bờ thửa bờ vùng. Khác nào đổ nước và thung lũng tròn ".

Từ sau giải phóng đến nay, tôi cùng các bạn đồng nghiệp ở Viện Lúa Đồng bằng Sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng, trại giống lúa Ma Lâm tỉnh Bình Thuận .. nối trí thầy chọn tạo nhiều giống lúa OM, OMCS, ST, MTL, ML .. Ở ĐBSCL, tôi cùng cộng sự đã chọn tạo một tập đoàn giống lúa cao sản xuất khẩu OM, OMCS được bà con nông dân mến mộ, trong các cuộc nhậu nhet đã gọi là "ôm em", "ôm em cực sướng". Năm 2000, chúng tôi được vinh dự đón nhận phần thưởng cao quý: danh hiệu anh hùng lao động, một cho Viện và một cho tôi; Giải thưởng Hồ Chí Minh cho đề tài "Giống và kỹ thuật canh tác lúa ở ĐBSCL" cho 10 nhà khoa học của Viện, tôi là chủ trì.

Xin trình bày một số hiểu biết sau vài thập kỷ hòa nhập với dân Nam Bộ mà người "khai tâm" cho tôi là thầy Của, như một nén tâm nhang kính thầy sắp vào dịp giỗ thầy sau 35 năm ngày mất, tháng 12/1975, ở tuổi 55 sung mãn sức lực, trí lực.

Khởi đầu công cuộc mở đất và giữ nước, có Nguyễn Trung Trực, Trương Định ... Các bậc sỹ phu đầy khí khái có Nguyễn Đình Chiểu, Thủ khoa Huân .., Đi đầu canh tân văn hóa có nhà bác học Trương Vĩnh Ký biết tới 27 thứ tiếng, là một trong 18 nhà khoa học được ghi danh trên thế giới thời ấy. Nữ chủ bút đầu tiên có Sương Nguyệt Ánh ... ; Nhà khoa học hàng đầu có các giáo sư Trần Đại Nghĩa, Lương Định Của, Trần Văn Giàu, Trần Văn Hưởng ..; Nhạc sỹ tài ba có Lưu Hữu Phước, Trần Văn Khê ...; Nhà văn hóa nghệ thuật đặc sắc có Cao Văn Lầu, Phùng Há, Út Trà Ôn. Nhà văn Sơn Nam, tên thật là Phạm Minh Tài, là tác gia hàng đầu trong nền văn học Việt Nam đương đại. Để tưởng nhớ cố nhà văn thọ 83 tuổi này, chúng ta thưởng thức một đoạn văn nghị luận xen vào hình ảnh thi vị sau: "Mùa lụt, cá nước ngọt theo nước ra khá xa vàm biển. Ngược lại, tới mùa khô, cá biển và cá nước lợ lại theo thủy triều vào sâu trong lòng sông. Cá rô có vẩy cứng có thể lóc đi trên bùn đất khô. Cá trê, rùa, lươn có thể sống trong bùn mà không ăn uống trong vài ba tháng nắng. Cá sặc đẻ trứng trên khô, mùa nắng tung bay theo gió rồi đáp xuống như hạt bụi để nở ra vùng trong nước đầu tiên của cơn mưa đầu mùa .. " (theo báo Văn nghệ, 04-10- 2008)

Vùng Nam bộ còn sản sinh ra nhiều tài năng vượt trên trình độ văn hóa, hay "tay nghề đi trước học thức" như GsVs Trần Đại Nghĩa nhận xét. Vài tiêu biểu như "Thần đèn" Nguyễn Cẩm Lũy đã dời được cả tòa nhà lớn, nhà chế tạo "máy hút bùn Trần Văn Dũng, máy dệt chiếu Nguyễn Văn Long;" Vua cua ghẹ lột "Nguyễn Văn Quang, chế tạo máy gặt đập lúa liên hợp Huỳnh Văn Út (Út máy cày), và khá nhiều nhà sáng tạo máy chân đất nông nghiệp, trình độ học vấn có khi chưa qua cấp 2 ..

Cách đây 3-4 thập kỷ, hồi ở miền Bắc, thầy Của ở miền Bắc lai tạo được nhiều giống lúa mới được nông dân ưa chưộng, như Nông nghiệp 1, Chiêm trăng, Đoàn kết .. Gần đây, tỉnh Sóc Trăng quê hương của thầy Của lại sản sinh những con người chọn tạo ra nhiều giống lúa rất ấn tượng, mặc dầu chưa bao giờ được gặp, được thọ giáo tiền bối Lương Định Của. Đấy là nhóm chọn tạo giống lúa do KS Hồ Quang Cua đứng đầu. Đến nay nhóm này đã chọn tạo tới 22 giống ST, trong đó có nhiều giống như ST3, ST5 .. khá phổ biến, những giống ST đỏ từ lai tạo giữa giống gạo đỏ địa phương với giống năng suất cao rồi chọn ra dòng gạo đỏ vừa năng suất cao, vừa có mùi thơm lá dứa.

Chân thành và khẳng khái trong cuộc sống, sáng tạo trong lao động chân tay và trí óc, nhân ái trong giao tiếp, độ lượng trong ứng xử xã hội, dũng cảm trong chống ngoại xâm, hòa nhập với cộng đồng và thân hiện với cây cỏ sông nước, là những phẩm chất rất quý của con người Nam Bộ cả xưa và nay. Nền văn minh lúa nước - miệt vườn ở vùng này sản sinh ra văn hóa "đơn ca tài tử" rất ấn tượng, và những làn điệu cải lương, vọng cổ mùi mẫm trữ tình.

Từ hồi khai hoang mở đất cách đây khoảng 300 năm, như chuyện kể lại, làm người con thứ hai trong gia đình tham gia. Và thế là ở Nam Bộ chỉ có Anh Hải, Anh Cả còn ở lại Bắc để cúng vái tổ tiên. Không chỉ vậy, mà hàng loạt ngôn từ thổ ngữ đã thể hiện ý trên. Có nhiều cặp từ chỉ cùng một nghĩa, nhưng người Bắc thường nói từ trước, miền Nam từ sau, như sau: tiền-bạc, tiêu-xài, to-lớn, bé-nhỏ, béo-mập, tiến-tới, chậm - trễ, luôn-lợi, ăn-nhậu, bạn-bồ / bè, cố-gắng, bơi-lội, lười-biếng, tìm-kiếm, rơi-rớt, yêu-thương, thóc-lúa, lẫn-lộn, trêu - choc .. Thứ tự "trước-sau" thể hiện ở cả hàm ý nguyên nhân và kết quả, như, tàu hút bùn-sáng thổi, hút - bắt đầu, thổi - kết thúc công đoạn; luôn-lời, lời là kết quả của luôn .. Cũng có một số ít ngoại lệ, như dơ-bẩn, ca-hát ..
Có điều lý thú là, ở Việt Nam mình người Bắc có thói quen nói Ngồng chữ đầu, như nói lẫn lộn giữa "n" và "l" (nan không, lưới không, trứng vịt không ..); miền Nam chữ cuối (khoai lan, bông hoa lang, ba Boong ..); còn miền Trung thì Ngồng chữ ngay giữa, gió như thành lồng lộng gió, làm ăn thành lởm ăn, hay lem ăn, ăn .. lem, tùy địa phương ..

Tập đoàn giống lúa bản địa làm người nông dân Nam Bộ sáng tạo và đặt tên cũng thể hiện tính chất phác, di dỏm, như Tái nguyên sữa, Nành chồn, Móng chim, vườn Sóc, Phùng Đốc, rồng Huyết, Tàu hương, Vàng lộn, Tang tép, Nếp thơm, Nếp Mù u.. Đặc biệt là, có đến vài ba chức giống có tên đầu là "Nàng", như Nàng Hương, Nàng thơm chợ Đào, Nàng Nhen, Nàng Loan, Nàng Co đỏ, Nàng Đùm, ...

GsTs Nguyễn Văn Luật, 24/11/2009
(Đăng theo bài do tác giả gửi )


NGƯỜI PHỤ NỮ NHẬT TRONG ĐỜI GIÁO SƯ LƯƠNG ĐỊNH CỦA

Như Trang

Bà Nobuko (1) Nakamura (người Nhật), phu nhân cố Giáo sư (GS) Lương Định Của - nhà nông học hàng đầu VN - năm nay đã 86 tuổi, nhưng nhìn rất trẻ và khỏe. Hiện bà đang sống tại TP.HCM cùng con cháu.

Cách đây đúng 55 năm, bà theo chồng về VN, và nguyện sống suốt đời tại quê hương thứ hai này dù chồng bà đã vĩnh viễn ra đi. Bà vừa có chuyến du lịch từ TP.HCM ra Hà Nội, Lào Cai, và dự lễ trao giải thưởng Lương Định Của lần I tại ĐH Nông nghiệp I. Bà đã dành cho Thanh Niên một cuộc trò chuyện cởi mở.

* Thưa bà Nobuko, bà và cố GS Lương Định Của đã gặp gỡ nhau trong hoàn cảnh nào?

- Trước khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, tôi là sinh viên ĐH quốc lập Kyushyu (Nhật Bản). Chồng tôi (tên là Lương Định Của chứ không phải là Lương Đình Của như một số người hay viết nhầm) là một trong số lưu học sinh thuộc các nước Đông Nam Á học ngành trồng trọt tại trường này và chúng tôi quen nhau ở đó.

Sau khi tốt nghiệp, do muốn học cao hơn nữa, chồng tôi chuyển đến ĐH Kyoto nghiên cứu về di truyền học tế bào. Năm 1945, kết thúc chiến tranh, được sự đồng ý của gia đình, chúng tôi tổ chức đám cưới. Tôi kém chồng tôi 2 tuổi. Trong thời gian sống tại Nhật Bản, chúng tôi đã có 2 con trai.

"Bạn bè tôi ở Nhật ngạc nhiên khi thấy tôi sống ở Việt Nam, vì họ cho rằng đất nước này nghèo nàn, lạc hậu, cuộc sống không an toàn. Tôi khuyên họ đến Việt Nam một chuyến vì giá du lịch sang đây rẻ, thế là họ đi. Sau khi đi ai cũng muốn quay trở lại lần nữa...".

* Được biết, dù đã lấy vợ và sống ở Nhật, nhưng lúc nào chồng bà cũng nung nấu ý định trở về Việt Nam để đem tài năng, sức lực ra giúp dân, giúp nước. Và mặc dù Việt Nam đang bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, nhưng bà vẫn nhiệt tình ủng hộ và theo chồng về Việt Nam...

- Cũng năm 1945, khi nghe tin nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, chồng tôi rất vui mừng, phấn khởi. Đặc biệt, chồng tôi rất ngưỡng mộ, kính trọng Bác Hồ và luôn tâm niệm sẽ trở về Việt Nam để phục vụ đất nước.

Năm 1952, sau khi chồng tôi lấy bằng Tiến sĩ (2) Nông học, gia đình tôi và bạn bè khuyên ông nên đưa vợ con sang châu Âu hoặc đến Mỹ. Ở đấy, công danh sự nghiệp nhất định thuận lợi hơn ở Nhật Bản.

Nhưng chồng tôi quyết định trở về Việt Nam. Ông thu thập các tư liệu, kết quả thí nghiệm... làm tài sản cho chuyến trở về nước qua đường Trung Quốc để đến chiến khu Việt Bắc. Nhưng chuyến đi không thuận lợi, gia đình tôi phải quay về Sài Gòn.

Lúc này Việt Nam đang là thuộc địa của Pháp, nên người Việt chịu rất nhiều bất công về vật chất và tinh thần. Gia đình các em chồng đối xử với tôi rất tốt. Tuy nhiên, phải một thời gian dài tôi mới hòa nhập được với phong tục tập quán VN.

* Được biết, trong thời gian GS Lương Định Của công tác ở Hà Nội, với kiến thức về nông học của mình bà đã giúp đỡ GS rất nhiều trong việc lai tạo giống cây trồng?

- Năm 1954 cách mạng cử người liên lạc, đưa cả gia đình tôi từ Sài Gòn tập kết ra miền Bắc. Lúc này tôi chưa nói được tiếng Việt. Tôi được Bộ Nông nghiệp sắp xếp công tác giúp đỡ chồng trong công việc lai cây lúa.

Đây là công việc đòi hỏi tính tỉ mỉ, cẩn thận, kiên nhẫn, những người khác làm việc này chồng tôi không tin tưởng.

* Và bà còn là biên dịch viên kiêm phát thanh viên tiếng Nhật của Ban tiếng Nhật, Đài Tiếng nói Việt Nam...

- Tôi nhận lời làm việc tại đài phát thanh vì thấy phù hợp và mình có thể làm được. Có một kỷ niệm không bao giờ quên khi tôi dịch và đọc bản tin ngày 30.4.1975, ngày miền Nam Việt Nam được giải phóng.

Tôi như vẫn thấy không khí sôi nổi, phấn khởi của người dân lúc đó. Đã trải qua những năm chiến tranh vất vả khi ở Nhật Bản cũng như ở Việt Nam, nên tôi không thể nào quên ngày chiến tranh hoàn toàn kết thúc.



Bà Nobuko thời trẻ

* Trong thời gian sống ở Hà Nội, chắc hẳn gia đình bà từng đón tiếp nhiều nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đến thăm?

- Gia đình tôi ở gác 4, khu tập thể Kim Liên, Hà Nội. Trong số các vị lãnh đạo nhà nước thời bấy giờ, quan tâm giúp đỡ chồng tôi nhiều nhất và được chồng tôi vô cùng kính trọng, coi như người anh lớn của mình là ông Phạm Văn Đồng và ông Phạm Hùng. Ông Phạm Văn Đồng đã đến thăm và chụp ảnh cùng gia đình.

Còn ông Phạm Hùng nhiều lần mời gia đình đến dùng cơm. Tại những nơi chồng tôi công tác có trồng nhiều cây, một số vị lãnh đạo có ghé thăm và chồng tôi có tặng họ những loại hoa quả trồng ở đó.

* GS Lương Định Của được coi là một nhà nông học hàng đầu Việt Nam, từng được trao tặng danh hiệu Anh hùng lao động (năm 1967), Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996)... Trong những thành công được ghi nhận của GS có phần đóng góp rất lớn của bà, bà có tự hào về chồng mình?

- Các danh hiệu mà chồng tôi được Chính phủ và Quốc hội trao tặng là do nỗ lực của bản thân ông cùng với sự góp sức rất nhiều của các đồng nghiệp. Trong đó, quan trọng nhất là việc các vị lãnh đạo đã tạo điều kiện thuận lợi cả về vật chất lẫn tinh thần để chồng tôi phát huy hết khả năng của mình phục vụ đất nước.

Bản thân tôi chỉ lo gánh vác việc nhà, nuôi dạy con cái để chồng yên tâm công tác. Tôi rất tự hào vì chồng mình có phần đóng góp trong việc phát triển nền nông nghiệp Việt Nam trong một giai đoạn rất khó khăn.

* Hơn 50 năm sống ở VN, bà có giữ mối liên lạc nào với quê hương và có dành thời gian trở về Nhật thăm gia đình?

- Tôi được cho phép về thăm gia đình ở Nhật Bản hai lần vào năm 1972 và 1976 bằng kinh phí do nhà nước đài thọ (vé máy bay và vé tàu biển). Tôi rất biết ơn, vì trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng Chính phủ vẫn quan tâm săn sóc đến cá nhân và gia đình tôi.

Lúc đó đi sang Nhật rất khó, do nước ta chưa có quan hệ ngoại giao với Nhật Bản. Nhưng bây giờ thì khác, việc đi lại rất dễ dàng, hằng năm tôi đều về Nhật thăm gia đình. Mặt khác thông tin liên lạc bây giờ hiện đại nên việc liên lạc với người thân ở Nhật Bản rất thường xuyên.

* Vì sao bà nguyện sống suốt đời tại quê hương thứ hai này dù chồng bà đã vĩnh viễn ra đi?

- Quan niệm của tôi là sống vì gia đình, vì chồng con. Tôi đã sống ở Việt Nam được 55 năm, đây cũng chính là quê hương của tôi. Hiện nay tôi thấy rất hạnh phúc vì sống gần gũi với con cháu. Năm 1976, khi về thăm gia đình ở Nhật Bản (lúc này chồng tôi đã mất), mẹ tôi có nói đưa hết cả gia đình về Nhật, bà sẽ lo cho.

Nhưng chồng tôi luôn nói rằng là người Việt Nam phải sống và làm việc ở Việt Nam để phục vụ đất nước. Có thể ra nước ngoài để học tập, nghiên cứu nhưng mục đích cuối cùng cũng là quay trở lại làm giàu cho quê hương mình.

Trong khi con cái tôi đang đi làm, học tại Việt Nam thì quay về Nhật Bản làm gì? Bây giờ tôi thấy mình quyết định không về Nhật Bản là hoàn toàn đúng đắn và trong lòng luôn cảm thấy hạnh phúc khi sống ở Việt Nam.



Bà Nobuko ở Bảo tàng Quang Trung


* Chứng kiến biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, kinh tế, văn hóa..., bà có cảm nhận gì về sự đổi thay của đất nước Việt Nam hôm nay?

- Việt Nam đang có nhiều thay đổi chóng mặt. Tôi vừa du lịch từ TP.HCM đến Lào Cai, đâu đâu cũng thấy xây dựng, hai bên đường cây cối xanh tươi, nhà cửa đẹp đẽ, nét mặt người dân luôn tươi vui... Năm 1955, lần đầu tiên tôi biết nông thôn miền Bắc, không thể tưởng tượng được sự nghèo khổ của người nông dân khi đó. Chính vì thế, tôi hiểu được lý do tại sao người Việt Nam hy sinh tất cả để đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, và quyết tâm xây dựng lại đất nước.

* Bằng những trải nghiệm của chính mình và sự quan sát những người Nhật khác sống ở Việt Nam, bà có nhận xét gì về người nước ngoài nói chung và người Nhật nói riêng sống ở Việt Nam?

- Bạn bè tôi ở Nhật ngạc nhiên khi thấy tôi sống ở Việt Nam, vì họ cho rằng đất nước này nghèo nàn, lạc hậu, cuộc sống không an toàn. Tôi khuyên họ sang Việt Nam một chuyến vì giá du lịch sang đây rẻ, thế là họ đi. Sau khi đi ai cũng muốn quay trở lại lần nữa.

Họ ca ngợi Việt Nam phong cảnh rất đẹp, cái gì cũng rẻ, thức ăn ngon, an ninh trật tự tốt, người Việt Nam rất hiếu khách. Nhiều người Nhật sang Việt Nam công tác muốn ở lại sống ở đây sau khi hết hạn.

Họ đã lấy chồng, vợ người Việt Nam, chứng tỏ nước ta rất hấp dẫn người nước ngoài. Chính phủ ta cũng có chế độ chính sách thích hợp, không phân biệt người nước ngoài, người dân không kỳ thị chủng tộc.

* Mối tình của bà và cố GS Lương Định Của là minh chứng cho tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Bà có muốn nói điều gì với thế hệ trẻ hai nước hôm nay?

- Thế hệ trẻ ngày nay ít quan tâm đến quá khứ. Ở cả Việt Nam và Nhật Bản ngày nay, thanh niên đều ít biết đến chiến tranh. Tôi có hỏi một cháu gái bán hàng lưu niệm khoảng 17-18 tuổi ở Quảng Trị: "Ở đây trước kia chiến tranh rất ác liệt phải không?". Cháu nói: "Không có, ở đây không bao giờ có chiến tranh cả!".

Nếu chúng ta không giáo dục cho thế hệ trẻ biết về sự khốc liệt của chiến tranh, thì chúng sẽ không thấy giá trị của hòa bình ngày nay. Tôi nghĩ, muốn có nền hòa bình bền vững để đất nước phát triển, những người trẻ tuổi cần phải thông hiểu lịch sử đất nước mình.

* Xin cảm ơn bà.

Như Trang


Nguồn : Thanh Niên ngày 7 tháng 3 năm 2007

Bị chú của ERCT :

(1) Trong nguyên bản, báo Thanh Niên đã sai lầm khi ghi tên bà Nakamura là Nubuko thay vì Nobuko. Chúng tôi sửa lại cho chính xác và cũng đã có gởi mail thông báo cho Thanh Niên

(2) Trong nguyên bản, báo Thanh Niên ghi là "Bác Sĩ".

(3) Xem thêm :

* Thông tin về một người đàn anh (Đặng Lương Mô - Exryu Việt Nam)

* Densetsu no Betonamujin - 伝説のベトナム人 Giáo sư Ogata Kazuo (緒方一夫)

Người theo dõi