HỌC MỖI NGÀY. Tạp chí Hồn Việt đăng bài của Mai Xuân Nghiên phỏng vấn nhà thơ Trần Đăng Khoa về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trần Đăng Khoa tác giả "Hạt gạo làng ta" đã nói nhưng lời thật tâm huyết và ám ảnh: “Nông dân thời nào cũng rất khổ”. Điều đó cho đến nay vẫn là một vấn đề thời sự. Theo tôi, muốn đánh giá hiệu quả của công cuộc đổi mới đất nước thì phải nhìn vào chất lượng đời sống của những người nghèo nhất xã hội là nông dân. Nếu người nông dân không thay đổi được số phận mình thì công cuộc đổi mới của chúng ta vẫn chưa đạt được hiệu quả đích thực.(Một buổi cày. Tranh sơn dầu của Lưu Công Nhân).
Mươi năm về trước, Trần Đăng Khoa có những nhận định khiến tôi ám ảnh mãi. Đó là những câu đầu trong tiểu phẩm có tên là Nông dân: “Nông  dân thời nào cũng rất khổ. Hình như họ sinh ra để khổ. Có cho sướng  cũng không sướng được. Có phủ lên vai họ tấm áo bào lộng lẫy của vua thì  họ cũng không thể thành được ông vua. Họ có sức chịu đựng gian khổ đến  vô tận. Nhưng mất hoàn toàn thói quen để làm một người sung sướng. Thế  mới khổ. 
Họ khổ  đến mức không còn biết là mình khổ nữa. Người nông dân ta dường như  không có thói quen so sánh mình với người dân ở các nước tiên tiến, cũng  như người dân đô thị. Họ chỉ so mình với chính mình thời tăm tối thôi.  Và thế là thấy sướng quá”. 
“Nông dân thời nào cũng rất khổ”, câu  nói đó thực xót xa. Nhưng, có đôi lúc, tôi hy vọng đó là nhận định nhất  thời của vị thần đồng một thủa. Tôi đem chuyện ấy gợi lại với tác giả Hạt gạo làng ta, ông trầm ngâm một hồi rồi tâm sự: 
- Khoảng mấy chục năm nay,  tôi sống ở thành phố nhưng mọi mối quan hệ vẫn ở làng quê. Bố mẹ tôi  ngoài 90 tuổi rồi vẫn đang sống ở quê. Các cụ không chịu ra thành phố.  Cụ bà bảo, “cái dân phố xá nó không có tình cảm. Nhà bên này có tang,  nhà bên cạnh lại mở nhạc xập xình. Thế thì sống chung với họ sao được hở  giời!”. Tháng nào tôi cũng về quê và cũng nhờ thế mà thấu hiểu được  người nông dân. Tôi vẫn thấy “nông dân thời nào cũng rất khổ”. Điều đó  cho đến nay vẫn là một vấn đề thời sự.
Theo tôi, muốn đánh giá hiệu  quả của công cuộc đổi mới đất nước thì phải nhìn vào chất lượng đời  sống của những người nghèo nhất xã hội là nông dân. Nếu người nông dân  không thay đổi được số phận mình thì công cuộc đổi mới của chúng ta vẫn  chưa đạt được hiệu quả đích thực. Ở thành phố, hiện nhiều người giàu  lên, có anh là tỉ phú và cũng có cả anh là trọc phú. Nhưng người nông  dân thì nói chung là vẫn không giàu. Theo tôi, hiện nay nước ta có đến  90% nông dân. Tôi nhìn đâu cũng thấy nông dân cả. Nông dân cày cuốc,  nông dân kinh doanh, nông dân làm quản lý, thậm chí có những nông dân ở  những cấp cao. Có nhiều anh rất trang trọng, nhưng nhìn cung cách ứng xử  của họ thì lại thấy hiện nguyên hình một anh nông dân quê mùa.
Nhìn vào các làng quê, nhất  là vùng sâu, vùng xa, vẫn không ít những nông dân còn trong cảnh bần  cùng. Phần lớn những người này đang bám đồng ruộng. Không thể phủ nhận  là hiện nay đời sống nói chung của chúng ta là có khởi sắc, nhưng cũng  còn rất nhiều vấn đề nan giải. Cái nan giải nhất hiện nay là nông dân  mất đất.
Trọn đời, Cụ Hồ chỉ có một  mong muốn, “mong muốn tột bậc là ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được  học hành”. Cụ đã làm hết sức mình để “người cày có ruộng”. Bây giờ người  cày lại đang mất ruộng. Ở một số vùng nông thôn ven đường lớn, hay ven  đô thị, bị thu hồi đất rất nhiều để làm khu công nghiệp, cả khu vui chơi  giải trí mà ta quen gọi là du lịch sinh thái. Đã thế, người nông dân  còn bán đất hương hỏa đi. Họ bán với giá rất rẻ. Anh phố thị nào cũng  muốn có cái nhà nghỉ hay trang trại ở quê. Chỉ bỏ ra chừng non tỉ bạc  là đã có thể có cả nghìn mét vuông đất quê. Người phố đổ về quê để được  sống. Còn anh nhà quê thì lại phải nhao về thành phố để kiếm sống.
Nhà thơ Trần Nhuận Minh có  bài thơ viết về thảm cảnh này của người nông dân chỉ có bốn câu, mà lần  nào nhớ đến, tôi cũng bị ám ảnh: “Những nông dân không còn ruộng đất -  Táp về thành phố - Bán mình trong các chợ người - Định nói một điều -  Nhưng rồi tôi im lặng”. Cái im lặng của nhà thơ, chúng ta có thể  hiểu được. Đấy là một bộ phận. Còn một bộ phận khác may mắn hơn, có nhà,  có đất, có việc làm, có chức vụ. Anh nhà quê ra phố, mang cả những luộm  thuộm, nhơm nhếch của làng quê đi “khai hoá” thành phố. Còn anh thành  phố thì lại mang xi măng sắt thép về bê tông hóa làng quê. Thế là tất cả  nháo nhào. Rốt cuộc là hỏng ráo cả.
Hiện nay, chúng ta đang quan  tâm rất nhiều tới việc quy hoạch đô thị, có nhiều chiến lược, kế sách.  Nhưng thử hỏi chúng ta có được bao nhiêu công trình, đề tài, bao nhiêu  tâm huyết của lãnh đạo quan tâm tới nông thôn? Cho nên, tôi có cảm giác  nông thôn hiện nay phát triển mang tính tự phát. Nhơm nhếch và hoang dại  một cách rất hiện đại.
Nhà văn hóa lớn Hữu Ngọc có  nhiều năm hoạt động trong Quỹ Văn hóa Việt Nam - Thụy Điển. Ông quan  tâm nhiều tới những ngôi nhà mang đặc tính thôn quê, để rồi tìm cách tài  trợ, phục dựng những ngôi nhà đó. Và rồi, khi đi khảo sát, ông phát  hiện ra rằng, chỉ còn một nơi giữ được, là làng Đường Lâm (Hà Nội).  Nhưng Đường Lâm giữ lại được không hẳn vì người dân có ý thức, mà vì đó  là vùng quê rất nghèo, chẳng có nghề gì ngoài nghề tráng bánh đa và kẹo  kéo. Nghề kẹo kéo, bánh đa thì không thể phá làng được. Và ông Hữu Ngọc  có kết luận rất đau xót thế này: “May mà cái nghèo đói đã cứu được cả  một mảng văn hóa đang bị hủy diệt”.
- Ây dà dà... 
- Tôi xin nhấn lại rằng,  nguy nan nhất ở nông thôn hiện nay là mất đất. Công nghiệp hóa thì rất  tốt. Tôi cho đó là chủ trương rất đúng nhưng chúng ta phải tính xem thế  nào.Tại sao không lấy những vùng đồi, vùng đất cằn không phát triển được  nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp, mà cứ lấy khu “bờ xôi ruộng  mật”? Bây giờ, cứ thử đi từ Hà Nội về Hải Phòng mà xem, những cánh đồng  thẳng cánh cò bay cũng đã “bay” hết rồi.
- Việc đưa các khu công  nghiệp, nhà máy lên vùng đồi, tránh xa vùng “bời xôi ruộng mật”, có thể  nói ai cũng nhận ra, cũng nhiều người kiến nghị rồi nhưng tại sao chúng  ta vẫn không làm được. Ông lý giải thế nào về vấn đề này? 
- Nhiều người đều nhận ra mà  rồi điều đáng tiếc vẫn cứ xảy ra. Nếu tôi nhớ không nhầm thì người đầu  tiên đặt ra vấn đề này thẳng thắn trên báo chí là nhà thơ Trần Nhuận  Minh, lúc đó là đại diện báo Tiền Phong tại Quảng Ninh, trò chuyện với ông Hà Văn Hiền, lúc đó là Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh. Bài đã đăng trang đầu tạp chí Văn Nghệ Quân Đội  từ thập niên 90 của thế kỉ trước, khi đó, các Khu công nghiệp còn chưa  nhiều. Nội dung bài báo đó, còn được Đài Phát thanh và Truyền hình Hà  Nội dàn dựng với nhiều cảnh quay rất có sức thuyết phục, nhưng hình như  những người có trách nhiệm chả mấy ai nghe.
Ông Hiền nhiều năm nay là  Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Nếu ông quan tâm hơn, tiếng nói  của ông sẽ có trọng lượng về vấn đề này. Còn vì sao có hiện trạng nông  dân mất đất ư? Có gì đâu. Vì ở đó tiện đường, dễ làm, dễ xây dựng cơ sở  hạ tầng. Mấy cái “dễ” ấy làm họ giảm được một nửa tiền đầu tư. Vì thế mà  họ ép những người có trách nhiệm. Có rất nhiều cách ép. Và khi khu công  nghiệp vào vận hành, lại thuận lợi về vận tải và tiện cho việc quảng bá  sản phẩm mà lại giảm được đầu vào, hạ được giá thành để tăng lợi nhuận.
Đối với nhà sản xuất, đấy là  vấn đề sống còn của họ, nên họ làm bằng được, và có nhiều biện pháp để  làm, trong khi ta cứ nhân nhượng rồi lại nhân nhượng. Họ lại còn có  nhiều sức ép và cách ép rất hiệu quả để thực hiện bằng được ý muốn. Cuối  cùng ta mất đất màu cho họ, cũng là điều dễ hiểu. Mà đất trồng lúa,  phải qua hàng ngàn năm canh tác mới tạo ra được.
Gần đây, trong buổi phát  biểu góp ý cho văn kiện Đại hội Đảng, tôi đã nói một ý: “Chúng ta phải  chọn và tìm được người lãnh đạo có tầm nhìn xa, tầm nhìn vượt nhiệm kỳ.  Còn nếu tầm nhìn chỉ ở một hoặc hai nhiệm kỳ thì chúng ta chỉ giải  quyết được những vấn đề trước mắt, mang tính vụ lợi cho một người hoặc  một nhóm người rồi hết nhiệm kỳ thì hạ cánh an toàn, còn mọi hậu quả,  con cháu gánh chịu”.
- Tức là vấn đề mấu chốt vẫn là người lãnh đạo? 
- Đúng vậy! Chúng ta cần  những người có tầm nhìn 20, 50 năm, thậm chí là cả trăm năm để mà giải  quyết vấn đề trước mắt về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Tôi đi các  nước thì thấy rằng, giữa nông thôn và thành phố không khác xa bao  nhiêu. Thậm chí không phát hiện được đó là làng quê, nếu không có tiếng  gà gáy. Quy hoạch của họ rất tốt, họ rất quan tâm tới nông thôn, nông  dân. Còn chúng ta thì thiếu cái đó.
Số phận người nông dân, có  thể bị đẩy vào thảm kịch là vì vậy. Thậm chí có cả những thảm kịch nhìn  bên ngoài không thể thấy được. Cái giàu của nông dân là cái giàu giả.  Trước mắt, anh bán được ít đất, có thể mua được xe máy, thậm chí có  người còn tậu được cả ô tô. Nhưng ô tô, xe máy để làm gì? Trong khi  trong nhà rỗng tuếch và con cái không có tiền ăn học. Đấy là những lạc  quan bi kịch mà hậu quả thì rất khó lường. Làng quê đã vỡ...
- Làng vỡ? Tôi nhớ, đã lâu lắm, có lẽ chừng 15 năm trước, ông viết một tiểu phẩm ngắn có tên là Vỡ làng. Trong đó, ông chỉ kể những câu chuyện vui thôi nhưng ngẫm ra không thiếu những giọt nước mắt đau xót... 
- Đúng vậy! Bây giờ chuyện  ấy vẫn là vấn đề nan giải. Cũng may, nhờ kết quả của công cuộc đổi mới,  nhiều vẻ đẹp của phong tục cũ đã được khôi phục. Nhưng rồi cũng có người  lại lợi dụng sự thông thoáng đó để trục lợi. Ví dụ như việc xây chùa  chiền, đền miếu chẳng hạn. Bên cạnh ngôi chùa lớn, thấy có nhiều khách  hành hương. Thế là người ta “cấy” thêm rất nhiều ngôi chùa bên cạnh để  thu công đức. Cái đó lại không ổn rồi. Nó làm băng hoại văn hóa. Đâu  phải tâm linh. Ngay trong văn hóa tâm linh ở làng quê cũng đang vỡ. Nhìn  ở góc độ người làm văn hóa, tôi cho rằng điều đó hiện nay cũng rất đáng  quan ngại.
- Hồi bé, ông viết câu  thơ: “Hạt gạo làng ta/ Gửi ra tiền tuyến”. Gửi gạo ra tiền tuyến, là để  nuôi quân đánh giặc, giành lại giang sơn. Bây giờ, không còn giặc ngoại  xâm nữa thì hạt gạo làng ta “gửi” ra thế giới, nuôi cả một phần nhân  loại nhưng như ông nói thì chính người làm ra hạt gạo còn nghèo quá,  nhiều vùng còn đói nữa. Cái nghịch lý này sao tồn tại dai dẳng vậy, thưa  nhà thơ Hạt gạo làng ta? 
Hiện nay, đúng là chúng ta  xuất khẩu gạo đứng thứ nhì thế giới thật. Rồi có thể chúng ta sẽ đứng  đầu thế giới về xuất khẩu mồ hôi nước mắt. Nhưng như thế không có nghĩa  là đời sống người nông dân chúng ta giàu nhất nhì thế giới. Bởi làm ra  hạt gạo khổ lắm. Mà giá gạo lại rất rẻ. Một tấn thóc bây giờ nếu quy ra  tiền thì đáng bao nhiêu đâu.
Tôi xem ti-vi, ở khu ngoại  thành Hà Nội, có một chị nông dân, cả một vụ mùa đầu tắt mặt tối, trừ  chi phí tất cả chỉ còn lãi được có 500.000 đồng. Năm trăm nghìn đó thì  làm được gì? Sao nuôi con ăn học được? Rồi còn việc ma chay, giỗ tết và  trăm thứ ở làng nữa, chị nông dân ấy trông vào đâu?
Chúng ta xuất khẩu gạo,  nhưng cũng cần nghĩ đến việc đầu tư trí tuệ vào gạo. Ví như sản xuất  được một loại gạo có khả năng chống béo phì, một căn bệnh mà thế giới  rất sợ hãi chẳng hạn. Chỉ có thế, hạt gạo của chúng ta mới đắt giá. Và  như thế, có thể nói rằng, chỉ khi nào chúng ta xuất khẩu được trí tuệ  thì Việt Nam mới thật sự cất cánh. Một sản phẩm công nghệ của trí tuệ  chỉ vài lạng thôi nhưng có khi bằng cả chục tấn thóc gạo của người nông  dân chân lấm tay bùn. Nhưng nói gì thì nói, chúng ta cũng không thể bỏ  cây lúa được. Điều quan trọng là chúng ta làm thế nào để đời sống của  người nông dân giàu lên?
Vai trò của người nông dân  rất quan trọng. Hãy cứ xem trong cuộc kháng chiến, con em ai hy sinh  nhiều nhất? Xin trả lời ngay đó là con em nông dân. Bây giờ, vẫn còn  hàng vạn con em nông dân nằm dưới lòng đất mà không tìm thấy hài cốt.  Cho nên, chúng ta phải nghĩ ra cách nào đó để người nông dân có thể  sướng được, làm giàu được thì sự hy sinh ấy mới có ý nghĩa. Làm sao để  họ có thể sống được, sống đàng hoàng trên chính mảnh đất của mình. Về  vấn đề này, Lênin nói rất hay: “Hãy để người nông dân nghĩ trên luống  cày”. Tôi nghĩ cái đó rất đúng. Chính luống cày sẽ dạy cho họ cách sống  và cách làm giàu như thế nào.
- Nói về nông dân, nông thôn như vậy, nếu ai đó nói rằng Trần Đăng Khoa bi quan quá, ông nghĩ sao? 
- Tôi không phải người bi  quan cũng không phải là người lạc quan. Tôi chỉ nhìn thẳng vào sự thật,  điều mà Đại hội VI của Đảng đã dạy tôi.
- Nếu mượn lời của một  tiến sĩ có danh phận để “nói lại” với ông rằng, một bộ phận nông dân  không nhỏ của chúng ta còn lười nên dẫn đến nghèo khó, ý kiến ông ra  sao? 
- Tất nhiên cũng có người  nghèo vì lười. Nhưng nông dân mình tuyệt đại bộ phận không lười đâu. Nếu  ai đó nói người nông dân mình lười, tôi phản bác ngay. Nhưng chỉ có  điều, họ đổ mồ hôi rất nhiều mà hiệu quả lại rất thấp. Vấn đề là ở đó.  Và ở chỗ này, người nông dân không tự lo cho mình được, vì thế mới cần  đến các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý….
- Thưa ông, giả dụ bây giờ đặt ông vào vị trí lãnh đạo một địa phương, ông sẽ làm gì để người nông dân mình bớt khổ?
- Tất nhiên điều đó không bao giờ xảy ra (cười).  Chúng ta không nên bàn chuyện ở trên mây. Tuy nhiên, những đấng cứu thế  có khi vẫn đang nằm ở trong dân. Chúng ta đã từng có một Kim Ngọc đó  thôi. Vấn đề làm sao để cho đời lại xuất hiện những Kim Ngọc mà không bị  “đứt gánh”...
- Thưa ông, trong những  năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách đối với nông nghiệp,  nông dân và nông thôn, ông đánh giá thế nào về những chương trình đó? 
- Phải nói ngay rằng, những  chính sách đó rất hay nhưng sòng phẳng mà nói, nó chỉ giải quyết được  những vấn đề nhất thời. Cái chúng ta quan tâm lớn hơn thế và cái mà  chúng ta cần đạt được cũng phải lớn hơn thế…
- Còn trong văn học thì  sao? Thực tế chứng minh rằng, những tác phẩm hay nhất, thăng hoa nhất là  những tác phẩm về nông thôn, thân phận người nông dân. Nhưng gần đây,  nói theo một nhà văn có tên tuổi, thì chính các nhà văn nhà thơ cũng  đang rời xa nông thôn mà đang chạy theo vuốt ve thành thị. Là một nhà  thơ, ông thấy nhận xét ấy thế nào? 
- Ở đây tôi, một lần nữa  phải cảm ơn tới Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn đã có sáng  kiến ở tầm vĩ mô về cuộc vận động sáng tác về đề tài “tam nông” vừa qua.  Sau việc tôn vinh những tác phẩm âm nhạc đặc sắc về nông nghiệp, nông  dân và nông thôn là mảng văn học.
Theo tôi, những sáng tác hay  nhất của chúng ta vừa qua vẫn là về đề tài nông thôn. Người đầu tiên  viết hay về nông thôn phải nói đến các cụ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Phạm  Duy Tốn, rồi đến Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,  Nguyễn Bính… Sau này là Nguyễn Kiên, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Đào Vũ, Ngô  Ngọc Bội, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Hữu  Nhàn… và gần đây nhất trong giới trẻ là Nguyễn Ngọc Tư…
Đến bây giờ, tôi vẫn cho  rằng, đề tài nông thôn không hề kém hấp dẫn. Đấy vẫn là mảnh đất màu  mỡ. Hy vọng ở đó, chúng ta sẽ có những tác phẩm lớn. Nông thôn vẫn gắn  bó xương cốt với người viết, là vùng người viết thông thạo hơn cả. Trở  về vùng đất màu mỡ ấy, hy vọng chúng ta mới có được những vụ mùa văn  chương.
Còn có ý kiến cho rằng, văn  sĩ quay lưng với nông thôn, vuốt ve thành thị thì tôi cho rằng cái đó  không hẳn đâu. Tôi không tin như thế. Còn việc nhà văn sống ở đâu thì  không quan trọng. Cái quan trọng là người đó có am tường nông thôn không  và họ đã viết như thế nào. Tất cả những gì đã có, dù ít dù nhiều cũng  cho chúng ta niềm hy vọng. Có phải thế không?
 Trần Đăng Khoa
Trần Đăng KhoaNguồn Hồn Việt
Mai Xuân Nghiên thực hiện
HỌC MỖI NGÀY, FOODCROPS
 

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét