Lưu trữ Blog

11 tháng 10, 2012

Nguyễn Thị Hoàng Hòa chùm thơ hay

HỌC MỖI NGÀY. Nhà thơ Dương Phượng Toại, bút hiệu Cẩm Phượng Gió Đồng Quê vừa giới thiệu chùm thơ hay của Nguyễn Thị Hoàng Hòa ở Uông Bí, Quảng Ninh; Ông viết: "Chân thành, dịu dàng, hiền lành và tinh tế đằm thắm là đặc trưng chất thơ nữ tính của Nguyễn Thị Hoàng Hòa. Chị là một trong số ít những nữ thi sĩ của Hội VHNT Quảng Ninh. Khiêm nhường trước cơn lốc xuất bản thơ, chị nhẹ nhàng và thầm lặng viết một cách từ tốn như người phụ nữ mỉm cười bên khung thêu, cẩn thận thêu những bài thơ lên tấm lụa cuộc sống. Trước hình ảnh các chiến sĩ đảo Trường Sa ngày đêm bảo vệ biển đảo của Tổ quốc, chị đã viết một chùm thơ khiến đọc lên ta khó ngăn được nỗi lòng nghẹn ngào, xúc động.". Tôi đã xin phép anh Toại chép chùm ba bài thơ của cô Nguyễn Thị Hoàng Hòa về trang này để mọi người cùng đọc.

BÃO TỐ TRƯỜNG SA

Nguyễn Thị Hoàng Hòa

Biển Trường Sa chưa mặn thế bao giờ
Mặn như máu, mồ hôi và nước mắt
Dẫu chưa đến mà lòng dau quặn thắt
Mỗi lần nghe Bão tố Trường Sa

Là đất đai hương hỏa ông cha
Quần đảo ấy thịt xương tổ quốc
Mỗi đảo nhỏ như một người lính gác
Mấy nghìn năm giữ vững sơn hà

Giữa vùng trời vùng biển của ta
Lão ngư phủ đuổi theo luồng cá
Bỗng thấy có điều gì rất lạ
Lũ chim trời nháo nhác bay lên

Ngoài kia mặt nước vẫn bình yên
Và bầu trời đột nhiên tĩnh lặng
Lão ngư phủ thấy lòng nghẹn đắng
Chợt hiểu rằng sắp : Bão tố Trường Sa…

CÂY TRE TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA

Nguyễn Thị Hoàng Hòa

Người chiến sỹ đón cha ra thăm đảo
Quà cho con là ba gốc tre già
Tre được trồng xen giữa “Phong Ba” *
Kiêu hãnh trước cuồng phong biển cả

Tre dịu dàng, lá mượt xanh óng ả
Rễ đan dày, măng tới tấp chồi lên
Mang hơi ấm từ đất liền ra đảo
Tre cùng người thao thức đêm đêm

Tre làm nhà lúc đất nước bình yên
Tre làm chông cùng buôn làng đánh giặc
Tre hiện diện khắp làng quê Việt
Người và tre gắn bó bao đời

Quần đảo Trường Sa tre đã sinh sôi
Trước bão tố tre giăng thành chiến lũy
Đứa con đầu của vợ chồng chiến sỹ
Ngủ ngon lành trong chiếc nôi tre.

-------------
• “ Phong ba” là loại cây đặc trưng của quần đảo Trường Sa.



TÌM LẠI LỜI RU

Nguyễn Thị Hoàng Hòa

Con về tìm lại lời ru
Bồng bông cái bống… chiều thu ạ ời
Yên Hưng đồng ruộng quê tôi
Cánh cò chớp nắng cõng lời ru êm.

Vườn xưa rối ngọn cỏ mềm
Hoa xoan vẫn rụng tím thềm nhà ai
Cha đi đánh giặc hôm mai
Lặng thầm bóng mẹ đổ dài qua duyên.

Bồng bềnh cánh võng chao nghiêng
Lời ru dịu ngọt dệt nên mùa vàng
Chuyến đò mê mải sang ngang
Đôi bờ gió cuốn vút hàng cau xanh.

Bao nhiêu thơm thảo ngọt lành
Mẹ gom góp lại hóa thành lời ru !

Đăng trong tập thơ:
TÌNH YÊU CỦA TÔI


Trở về trang chính

TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
(Hoàng Kim để tôi đọc lại)
DẠY VÀ HỌC
(trang tình yêu, văn hóa giáo dục,
khoa học cây trồng và du lịch Việt)
HỌC MỖI NGÀY
(Những bài tuyển chọn về văn hóa giáo dục
lịch sử, thơ văn)
DẠY VÀ HỌC Ở ĐHNL HCM

8 tháng 10, 2012

Thực trạng giáo dục và những kiến nghị

HỌC MỖI NGÀY. GS. Nguyễn Lân Dũng có bài viết "Thực trạng giáo dục và những kiến nghị". Đây là tài liệu giàu thông tin, mạch lạc, có hệ thống, với những  kiến nghị tâm huyết.  Diễn đàn Dạy và Học lưu chuyên mục này. Các ý kiến trao đổi trực tiếp cùng GS. Nguyễn Lân Dũng   tại đây


THỰC TRẠNG GIÁO DỤC VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ

GS. Nguyễn Lân Dũng


Nhân dịp khai giảng niên học 2012-2013, trong thư gửi các thầy cô giáo và học sinh , sinh viên cả nước, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đã viết: "Năm học 2011-2012 vừa qua, ngành Giáo dục đã nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều kết quả quan trọng. Công tác quản lý giáo dục có những đổi mới theo hướng tăng cường phân công, phân cấp, tăng quyền tự chủ gắn với nâng cao trách nhiệm và kiểm tra, giám sát trong quản lý giáo dục các cấp. Chất lượng giáo dục toàn diện và giáo dục vùng khó khăn có mặt được nâng lên. Công tác xã hội hóa giáo dục, huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục thu được kết quả tích cực. Nhiều học sinh, sinh viên đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế.Tôi nhiệt liệt biểu dương sự nỗ lực cố gắng và những kết quả của ngành Giáo dục, nhất là đội ngũ các thầy giáo, cô giáo tâm huyết, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp "trồng người", các em học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vượt khó vươn lên trong học tập."


Nhìn lại trong10 năm qua (2001 - 2010), quy mô đào tạo nghề đã tăng 3,08 lần, trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,69 lần; quy mô giáo dục đại học tăng 2,35 lần. Năm 2010, số sinh viên cao đẳng và đại học trên một vạn dân đạt 227; tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40%, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, nâng dần về chất lượng, từng bước khắc phục một phần bất hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục và phát triển các cấp học và trình độ đào tạo. Trong 10 năm qua, tỷ trọng quy mô đào tạo ngoài công lập trong tổng quy mô đào tạo tăng: sơ cấp nghề tăng từ 28%5 lên 44%, trung cấp và cao đẳng nghề tăng từ 1,5% lên 5,5%, trung cấp chuyên nghiệp tăng từ 5,6% lên 27,2%, cao đẳng tăng từ 7,9% lên 19,9%, đại học tăng từ 12,2% lên 13,2%. Cơ sở vật chất nhà trường được cải thiện. Tỷ lệ phòng học kiên cố tăng từ 52% năm 2006 lên 71% năm 2010. Nhà công vụ cho giáo viên và ký túc xá cho học sinh, sinh viên đã được ưu tiên đầu tư xây dựng và tăng dần trong những năm gần đây.Trong 10 năm qua, những thành tựu của giáo dục nước ta đã đóng góp quan trọng trong việc nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.

Bên cạnh các thành tựu đã đạt được nền giáo dục nước ta đã bộc lộ ngày càng rõ những hạn chế, bất cập. Nhân tham dự ngày khai trường tại Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu lên một phần những hạn chế bất cập này. Thủ tướng chỉ rõ : "giáo dục và đào tạo nước ta vẫn còn những bất cập, yếu kém, chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa thực sự gắn với nhu cầu của xã hội. Giáo dục kiến thức về xã hội, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng thực hành còn kém, chưa phát huy khả năng tự học, tính chủ động, sáng tạo của người học; việc tham gia vào các hoạt động xã hội của học sinh, sinh viên còn nhiều hạn chế…"

Chúng ta hãy xem về những hạn chế, bất cập mà Thủ tướng đã nêu lên:

Vì chất lượng GDPT chưa cao (mặc dầu tỷ lệ thi tốt nghiệp là rất cao) nên đầu vào của các trường Đại học và Cao đẳng chưa tương xứng với yêu cầu. Trong khi các ngành khoa học cơ bản là xương sống của nền khoa học nước nhà thì số thí sinh thi vào các ngành khoa học cơ bản ngày càng ít , với chất lượng ngày càng thấp. Đặc biệt với các ngành Khoa học xã hội thì với kết quả hàng ngàn bài thi môn Lịch sử bị điểm 0 cho thấy một thực trạng hết sức đáng lo ngại về trình độ Tú tài của học sinh ta hiện nay. Chưa nói đến những yêu cầu cao siêu, chỉ xem một bức thư xin nghỉ học của một học sinh lớp 10, tuy chỉ có mươi dòng nhưng ngoài việc chữ rất xấu, viết hoa tùy tiện , còn thật đáng xấu hổ khi mắc những lỗi chính tả mà có lẽ học sinh tiểu học cũng không thể măc phải (như viết ngỉ học, hôm lay, đơn lày, chong lúc. có ngịch, xa xút, em ngĩ, học xinh, nhà chường, cho lên, phụ hunh...) .


Anh Jeffrey Thái một Việt kiều ở Mỹ đã viết trên blog của mình như sau: "Tôi là người sống xa xứ đã lâu, gần hai thập kỷ, và đã có một khoảng thời gian rất dài không có điều kiện để đọc chữ Việt, cho mãi đến khi chúng xuất hiện trên mạng Internet những năm gần đây. Khi đọc lại tiếng Việt của ngày hôm nay, tôi đã "choáng váng" mà nhận ra rằng: Nó đã xuống cấp nghiêm trọng, cụ thể nhất ở khâu chính tả và diễn đạt, ở những bài viết mà tôi có dịp được đọc qua. Tham gia các trang mạng xã hội Việt trong thời gian hơn một năm, tôi hiếm hoi đọc thấy một bài viết mà không có sai phạm về mặt chính tả và việc diễn đạt hoàn toàn trôi chảy theo đúng ngữ pháp tiếng Việt... Tôi vẫn còn nhớ vào những ngày còn đi học ở VN, tôi vẫn luôn được dạy để nhớ rằng: Việc viết sai chính tả là một điều cực kỳ đáng xấu hổ. Thế mà, giờ đây dường như mọi người "thoải mái" viết sai chính tả một cách rất... vô tư".

Năm học 2009-2010 cả nước có tới 149 trường Đại học và 227 trường Cao học, thu hút tới 1,93 triệu sinh viên. Không hiểu nổi trong 376 ngôi trường này có bao nhiêu phòng thí nghiệm, bao nhiêu xưởng thực hành? Cũng không hiểu trong số 70 558 thầy cô giáo đang giảng dạy tại các trường này có bao nhiêu người có trình độ Thạc sĩ hay Tiến sĩ. Kiểu Cơm chấm cơm và Học chay rất phổ biến này làm sao có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Rất nhiều trường mở Khoa Môi trường nhưng không một sinh viên nào về nơi công tác đủ khả năng thiết kế một công trình xử lý rác, xử lý nước thải, vậy thì biết làm gì khi các Sở tài nguyên Môi trường không còn biên chế để nhận thêm cán bộ. hàng loạt sinh viên Đại học sau khi tốt nghiệp đã thất nghiệp vì không đủ tiền chạy chỗ vào công sở, hoặc không đủ khả năng để nhận việc ở các công ty, xí nghiệp tư nhân. Không ít sinh viên đã phải đi tiếp thị mỳ tôm hay các việc làm tương tự để kiếm sống. Việc Nhà nước cho vay tiền để học Đại học không hiểu sinh viên sau khi ra trường sẽ lấy đâu ra tiền để trả lại cho Nhà nước? Tôi trộm nghĩ: việc đông đảo thanh niên ham thích được học Cao đẳng, Đại học là chuyện rất đáng quý, nhưng nếu không đủ thày cô dạy cho có nghề hẳn hoi thì thà cho học ngoại ngữ còn hơn.

Hiện nay trên internet có vô vàn bằng sáng chế, phát minh sau thời gian bảo hành được công bố rộng rãi. Chỉ cần biết ngoại ngữ là có thể sở hữu và có thể tự lập công ty sản xuất ra sản phẩm theo các công thức đã nắm được (!). Thật khôi hài khi một công ty tư nhân bé tý tẹo nhưng khi tuyển cán bộ ngoài tấm bằng chính quy ra còn đòi hỏi phải có thêm cả bằng Ngoại ngữ và bằng Tin học. vậy mà có 3 tấm bằng ấy rồi cũng đâu có dễ xin được việc làm. Hiện nay là như vậy, đến năm 2020 dự kiên sẽ có khoảng 350-400 sinh viên tính trên 1vạn dân, không hiểu nếu không đổi mới chất lượng đào tạo thì ngay tìm việc đi "tiếp thị mỳ tôm" cũng đau có dễ (!). Ngoại ngữ thiếu liên thông, cho nên đầu cấp học thường vẫn phải học lại từ đầu ây, bi, xi và vì vậy sau khi tốt nghiệp Cao đẳng, Đại học vẫn chưa sử dụng được thành thạo bất kỳ một ngoại ngữ nào. 

 
Trong khi các trường Đại học thiếu điều kiện nghiên cứu cho cả thày lẫn trò thì Nhà nước lại cho thành lập hàng loạt các Viện, các Trung tâm nghiên cứu bên ngoài Đại học. Không kể các nước phát triển như ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Úc...mà ngay các nước châu Á như Thái lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapor, Malaysia ... cũng chẳng có ai làm như vậy ? Tại sao không đưa Viện Toán về Khoa Toán Đại học quốc gia, nay lại thêm một Viện Toán cao cấp để GS.Ngô Bảo Châu xuân thu nhị kỳ đưa chuyên gia về giảng dạy (chả nhẽ mong có thêm một giải Fields nữa hay sao?).

Lại nói về phong trào "Hai không" được phát động rầm rộ cách đây không lâu. Khi ấy có trường với tỷ lệ tốt nghiệp là 0%, nhưng chính ngôi trường ấy năm vừa qua lại đỗ tốt nghiệp tới 100%. Tôi hỏi một cháu ở Hà Tây cũ về kỳ thi vừa qua. Cháu nói thày cô cho mang phao thoải mái vào phòng thi, chỉ cấm mang sách giáo khoa thôi. Vậy thì đâu chỉ có một Đồi Ngô ở Bắc Giang mà có cả Rừng Ngô trong cả nước. Kỷ luật các thày cô coi thi ở Đồi Ngô thật không công bằng, thật ra đấy là chủ trương của lãnh đạo Nhà trường chứ đâu có phải là hành động tự phát của các thày cô này.

Một bất cập rất lớn là Chương trình và sách giáo khoa. Vấn đề nay tôi sẽ xin nói thêm ở phần sau.


Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về giáo dục và công nghệ đã đưa chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo vào cuộc sống; Từ tinh thần Nghị quyết 40/2000/QĐ10 của Quốc hội khóa X, nhà trường đã đổi mới nội dung chương trình giáo dục phổ thông; cùng nhiều chủ trương chính sách khác đã góp phần đổi mới nhà trường theo nhu cầu xã hội. Nhưng sự nổ lực của nhà trường trong thời gian qua vẫn còn những giới hạn so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế


Cần thiết phải thực hiện công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện để góp phần nâng cao hiệu quả đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành một cách căn cơ và bền vững. Xã hội đã có những thay đổi về cơ chế hoạt động, về hệ thống giá trị và, về nhu cầu cuộc sống;tâm sinh lý lứa tuổi học sinh và tâm lý xã hội đã có những đổi thay; điều kiện hoạt động của xã hội và của từng gia đình thay đổi, khoa học kỹ thuật phát triển, công nghệ thông tin được sử dụng rộng khắp trong từng lãnh vực cuộc sống con người… Nên chúng ta không thể tiếp tục sử dụng nội dung chương trình, phương pháp dạy học, cơ chế tổ chức quản lý, phương thức đánh giá của nhà trường theo quan niệm giáo dục và hệ thống chuẩn mực của những năm trước.

Theo TS Huỳnh Công Minh thì thực tế cuộc sống đòi hỏi phải đổi mới toàn diện, đồng thời và đồng bộ trên tất cả các yếu tố cấu thành của hoạt động giáo dục từ mục tiêu giáo dục, nội dung chương trình đến phương pháp dạy học, cơ chế tổ chức quản lý và phương thức đánh giá.

- Mục tiêu giáo dục phải đổi mới mạnh mẽ từ con người khoa bảng thành con người thực tế; từ mục tiêu nhồi nhét kiến thức hàn lâm chuyển thành năng lực làm chủ cuộc sống; từ cơ chế độc quyền với từng hoạt động đơn lẻ chuyển sang phục vụ xã hội đa dạng, cạnh tranh với tinh thần hợp tác, thân thiện.

- Nội dung chương trình phải đổi mới từ phân hóa theo môn học thành tích hợp theo mục tiêu đào tạo; giảm lý thuyết từ chương, tăng cường thực tế; đổi mới mạnh mẽ từ nhà trường khép kín, gò bó sang giáo dục xã hội, mở rộng cửa trường đưa nhà trường thâm nhập vào cuộc sống.
- Phương pháp dạy học phải đổi mới từ dạy số đông sang dạy cá thể, dạy cách học; đổi mới từ dạy áp đặt một chiều của người dạy sang tương tác đa chiều của người học với thầy cô, bạn bè, sách vở, trong gia đình và ngoài xã hội; không dừng lại ở lý thuyết, minh họa mà vươn tới hoạt động thực hành, trải nghiệm, làm sinh động và hiệu quả hơn nội dung giáo dục để đạt yêu cầu mục tiêu giáo dục tốt nhất; làm cho học sinh thích thú, chủ động và tích cực tự tìm tòi học tập, nâng cao năng lực tự học, học suốt đời, học ở mọi lúc mọi nơi.
- Đánh giá quá trình dạy học vừa mang tính công nhận nhưng quan trọng hơn còn có tác dụng định hướng giáo dục rất hữu hiệu – “Thi cử thế nào, thầy và trò dạy và học như thế ấy!” Phải đổi mới mạnh mẽ hoạt động đánh giá, coi trọng đánh giá của giáo viên ngay trong quá trình dạy học, đây là hoạt động chủ yếu thay vì tập trung thi cử cuối khóa nặng nề, đối phó, hình thức, thiếu thực chất thoát ly mục tiêu đào tạo. Phải tạo điều kiện cho người học tự đánh giá để tự hoàn thiện mình, phải phối hợp với phụ huynh đánh giá học sinh để tạo sự thống nhất hệ thống giá trị giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
- Cơ chế tổ chức quản lý, phải đổi mới mạnh mẽ từ quan liêu bao cấp sang cơ chế tự chủ nhà trường, không chờ đợi, ỷ lại vào cấp trên mà phải tạo điều kiện cho từng giáo viên sáng tạo, tự giác chấp hành luật pháp, thực hiện quy chế với ý thức tổ chức kỷ luật cao, đồng thời chủ động thể hiện từng động tác giáo dục phù hợp và hiệu quả với từng học sinh trong quá trình dạy học như những nhà giáo dục thực thụ.
- Thiết chế tổ chức nhà trường phải đổi mới phù hợp với quan điểm đổi mới, giảm sỉ số trong lớp từ 35, 45 học sinh xuống còn 20, 30 học sinh; học sinh học tập và hoạt động cả ngày trong trường (2 buổi/ngày); giáo viên phải có chế độ làm việc cả ngày (8 giờ) theo đúng quy trình lao động của ngành nghề, nghiên cứu tài liệu, tiếp cận học sinh, nắm chắc tâm sinh lý lứa tuổi, hoàn cảnh, soạn bài, giảng bài, ra bài tập kiểm tra, chấm bài, chữa bài, đánh giá nhận xét từng học sinh chu đáo, đúng mực…thay vì chỉ đến trường theo giờ dạy, vì lao động của nhà giáo là lao động cao cấp, phức tạp, khác với các ngành nghề lao động giản đơn.

Tôi đồng ý về cơ bản với những quan điểm trên đây và thấy không cần bổ sung gì thêm
.

Tôi chỉ muốn dẫn chứng về một chuyên ngành mà tôi am hiểu
. Đấy là chương trình và sách giáo khoa Sinh học ở bậc phổ thông: Bộ sách giáo khoa Sinh học là cố gắng rất lớn của nhiều tác giả, nhưng rất tiếc là chương trình lại không hợp lý: Rõ ràng là rất nhiều vấn đề nhưng các vấn đề đưa ra ở đây rất "nông". Tôi đã mua trên 70 cuốn sách giáo khoa Sinh học ở bậc phổ thông ở các nước và thấy chương trình ở ta chẳng giống nước nào cả (!). Vừa nặng lại vừa thấp. Có lẽ đó là do chịu ảnh hưởng của sách giáo khoa Sinh học trước đây của Liên Xô. Hầu như tất cả các môn học ở Khoa Sinh Trường đại học Sư phạm đều có trong chương trình phổ thông. Như vậy có thể thấy trong cuốn Sinh học chương trình phổ thông có quá nhiều nội dung, quá nhiều chi tiết không cần thiết trong khi số giờ lại quá ít. Tôi đã thử hỏi nhiều em đang học cấp III và thấy các em hiểu biết rất mù mờ và hầu như chả mấy em thích thú. Em nào định thi vào Sinh, vào Y, vào Dược thì đi tìm sách Đại học để đọc thêm, vì phải cạnh tranh rất cao trong khi sách phổ thông quá sơ lược (nhiều vấn đề nhưng dàn trải, vấn đề nào cũng rất "nông").Hơn nữa, ra đề thi Tốt nghiệp PTTH nếu theo nguyên tắc không được hỏi trùng các đề đã ra thì thật vô cùng khó, vì cuốn sách giáo khoa lớp 12 quá... mỏng! Vấn đề nào hay đã bị hỏi trong các kỳ thi trước hết rồi. Các em đã học quá nhiều chuyên ngành (động vật không xương, động vật có xương, thực vật bậc thấp, thực vật bậc cao, vi sinh vật học, giải phẫu và sinh lý người, di truyền học, tiến hóa học, sinh thái học...), trong khi số lượng giờ dạy quá ít ỏi mỗi tuần. Vừa khó hiểu, vừa khó nhớ, lại không muốn học (vì ít khi có trong số các môn thi tốt nghiệp) thì hiểu sao được? Đã không hiểu thì còn nói gì đến nhớ (thế là lại phải cầu cứu đến "phao"). Nội dung di truyền học là rất khó, nếu giáo viên không hiểu kỹ thì rất khó làm cho học sinh có thể hiểu được. Xem kết quả các bài thi thì thấy rất rõ chuyện này. Và liệu rằng một cháu 12 tuổi ở nước ta có nhớ nổi sơ đồ cắt ngang của một thân cây trưởng thành với các thuật ngữ khó hiểu như vỏ, tầng sinh vỏ, thịt vỏ, mạch rây, tầng sinh trụ, mạch gỗ? Cháu 13 tuổi có thể nhớ các bộ phận thùy khứu giác, thùy thị giác, não trước, tiểu não, hành tủy, tủy sống của con thằn lằn?

Tôi thấy cần tham khảo chương trình các nước. Tôi chú ý đến chương trình của hai nước: Pháp và Nepal. Pháp là một nước khoa học phát triển nhưng học sinh phổ thông không học Sinh học (Biologie) mà chỉ học môn Khoa học về sự sống và về Trái đất (Sciences de la Vie et de la Terre). Đó là cách dạy tích hợp những kiến thức về sự sống và về Trái đất nói chung. Về sự sống, học sinh sẽ hiểu khá sâu về tiêu hóa, tuần hoàn, thần kinh, hô hấp, tiêu hóa, di truyền, tiến hóa... của thế giới sinh vật chứ không học sâu về bất kỳ nhóm sinh vật nào. Nhờ có thời gian nên có thể hiểu rất sâu cả những tiến bộ mới mẻ về di truyền, thậm chí về cả sinh học phân tử và công nghệ sinh học. Còn ở Nepal, một nước rất nghèo, họ lại coi kiến thức phổ thông hết lớp 10 là đủ rồi (thế hệ chúng tôi học hết phổ thông có 9 năm thôi). Họ dành hai lớp 11 và 12 để phân ban sâu. Chỉ có 4 phân ban: Quản trị & Kinh doanh, Xã hội & Nhân văn, Toán-Lý và Hóa- Sinh. Chỉ có ban Hóa-Sinh mới học Sinh học mà thôi. Chính vì vậy tôi giật mình khi mua 2 cuốn sách giáo khoa Sinh học lớp 11 và lớp 12, mỗi cuốn trên 700 trang. Thế thì cần gì phải dạy thêm, học thêm nữa? Các nước Anh, Pháp, Australia... đều dạy môn Sinh học theo phương pháp tích hợp. Trước đây, ta đã mời chuyên gia Australia sang giúp xây dựng một chương trình sinh học theo hướng tích hợp. Không hiểu vì sao lại không được sử dụng! 


Tôi thấy cần sớm thay đổi chương trình Sinh học ở bậc phổ thông để không chênh lệch nhiều với các nước khác trên thế giới. Kiên quyết dạy theo phương pháp tích hợp. Không đi sâu vào từng nhóm sinh vật và càng không học phân loại (vừa khó nhớ lại vừa không cần thiết). Dạy sao cho học sinh có được hiểu biết chung về sự sống, kể cả những khám phá mới nhất về sự sống (tất nhiên bằng những khái niệm dễ hiểu và dễ nhớ). Chi tiết nào thầy không nhớ nổi thì đừng bắt học sinh phải nhớ. Đừng ngụy tạo ra quan điểm thay đổi như thế thì giáo viên không dạy được (!). Nếu thấy cần cho học sinh đa số rẽ ngang, không học tiếp đại học thì nên theo hướng phân ban sâu như Nepal. Chuyện này cần thảo luận và cân nhắc kỹ lưỡng. 

Còn việc in Sách Giáo khoa lại là chuyện của từng nhóm tác giả và từng nhà xuất bản. Bộ sách nào không theo sát chương trình thì không được in, nhưng trình bày có thể rất khác nhau (như nhiều nước khác). Lựa chọn bộ sách nào để dạy, để học là tùy thầy cô giáo và học sinh. Chỉ có cạnh tranh như vậy mới mong sớm có được những bộ sách giáo khoa tốt. Đây là một sự cạnh tranh rất khoa học, rất lành mạnh. 

Tôi nghe nói đến năm 2015 mới bàn lại Chương trình giáo dục phổ thông. Sau đó là thí điểm chương trình. Rồi thí điểm viết lại bộ sách giáo khoa, sau đó lại thí điểm sử dụng sách giáo khoa. Có thể khi đó tôi không còn tồn tại nữa rồi. Đâu cần nhiều tiền bạc như dự án vừa qua. Bộ nên dựa vào các Hội Khoa học chuyên ngành. Các Hội này sẽ lựa chọn ra các chuyên gia giỏi, kết hợp với các thầy cô giáo có kinh nghiệm lâu năm để biên soạn ngay một chương trình mới. Bộ chỉ cần xin các Sứ quán bạn các chương trình Sinh học phổ thông, hay lấy được từ trên Internet để tham khảo kinh nghiệm của một số nước đáng học hỏi. Tổ chức các cuộc Hội thảo sâu sắc về nên phân ban sâu hay không phân ban. Bỏ hẳn kiểu phân ban chênh nhau quá ít thời gian như hiện nay. Chương trình sau khi biên soạn xong cần đưa ra trưng cầu ý kiến rộng rãi trước khi thông qua một Hội đồng Quốc gia đầy đủ tín nhiệm. Sau đó để cho các nhà xuất bản và các nhóm tác giả cạnh tranh qua chất lượng các bộ sách giáo khoa khác nhau (nhà nước không cần tốn kinh phí gì về chuyện này). Bộ sách nào hay sẽ được tái bản nhiều lần (và ngược lại). (Sách giáo khoa) Tôi mong có thể làm ngay mà không cần đợi đến tận năm 2015.

Về các chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển Giáo dục 2010-2020 đã được Thủ tướng phê duyệt vào tháng 6 vừa qua, tôi cho rằng không có cơ sở để tin rằng có thể thực hiện được nếu không có những giải pháp hết sức mạnh dạn và với sự đầu tư đáng kể về tài chính của Nhà nước.

Xin hãy xem đó là những chỉ tiêu gì?

Theo Chiến lược này thì đến năm 2020. nghĩa là còn chưa đến 8 năm nữa sẽ phải đạt được các mục tiêu sau đây: Mục tiêu cụ thể được đặt ra là hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2015.Đối với giáo dục phổ thông, phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở tiểu học là 99%, trung học cơ sở là 95% và 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương; có 70% trẻ em khuyết tật được đi học. Đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, sẽ điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, phấn đấu đến 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề nghiệp và đại học đạt khoảng 70%; tỷ lệ sinh viên tất cả các hệ đào tạo trên một vạn dân vào khoảng 350 - 400. Giáo dục thường xuyên cũng được phát triển tạo cơ hội cho mọi người có thể học tập suốt đời, bước đầu hình thành xã hội học tập. 


Để đạt được các mục tiêu chiến lược cần thực hiện tốt 8 giải pháp, trong đó các giải pháp đổi mới quản lý giáo dục là giải pháp đột phá và giải pháp phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là giải pháp then chốt. 

Một trong các nội dung đổi mới quản lý giáo dục là bảo đảm dân chủ hóa trong giáo dục. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá người dạy, giáo viên và giảng viên tham gia đánh giá cán bộ quản lý... 

Bên cạnh đó, phân loại chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học theo các tiêu chuẩn chất lượng giáo dục quốc gia, các cơ sở giáo dục chưa đạt chuẩn phải có lộ trình để tiến tới đạt chuẩn. Đồng thời, chú trọng xây dựng các cơ sở giáo dục tiên tiến, trọng điểm, chất lượng cao để đào tạo bồi dưỡng các tài năng, nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế - xã hội.

Tập trung vào quản lý chất lượng giáo dục, thực hiện giám sát xã hội đối với chất lượng và hiệu quả giáo dục; xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục, thực hiện kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục của các cấp học, trình độ đào tạo và kiểm định các chương trình giáo dục nghề nghiệp, đại học. 


Chiến lược nêu rõ, chuẩn hóa trong đào tạo, tuyển chọn, sử dụng và đánh giá nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, chú trọng nâng cao đạo đức nghề nghiệp, tác phong và tư cách của đội ngũ nhà giáo để làm gương cho học sinh, sinh viên. Tiếp tục đào tạo, đào tạo lại đội ngũ nhà giáo để đến năm 2020, 100% giáo viên mầm non và phổ thông đạt chuẩn trình độ đào tạo, trong đó 60% giáo viên mầm non, 10% giáo viên tiểu học, 88% giáo viên trung học cơ sở và 16,6% giáo viên trung học phổ thông đạt trình độ đào tạo trên chuẩn; 38,5% giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 60% giảng viên cao đẳng và 100% giảng viên đại học đạt trình độ thạc sỹ trở lên; 100% giảng viên đại học và cao đẳng sử dụng thành thạo một ngoại ngữ.Thực hiện đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sỹ cho các trường đại học, cao đẳng với phương án kết hợp đào tạo trong và ngoài nước để đến năm 2020 có 25% giảng viên đại học và 8% giảng viên cao đẳng là tiến sỹ. 

Trên cơ sở đánh giá chương trình giáo dục phổ thông hiện hành và tham khảo chương trình tiên tiến của các nước, thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa từ sau năm 2015 theo định hướng phát triển năng lực học sinh, vừa đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc, vừa phù hợp với đặc thù mỗi địa phương. 

Chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, pháp luật, thể chất, quốc phòng - an ninh và các giá trị văn hóa truyền thống; giáo dục kỹ năng sống, giáo dục lao động và hướng nghiệp học sinh phổ thông. 

Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học. Đến năm 2020, 90% trường tiểu học và 50% trường trung học cơ sở tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. 

Đổi mới kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng đảm bảo thiết thực, hiệu quả, khách quan và công bằng; kết hợp kết quả kiểm tra đánh giá trong quá trình giáo dục với kết quả thi.Thực hiện định kỳ đánh giá về chất lượng học tập của học sinh phổ thông nhằm xác định mặt bằng chất lượng và làm căn cứ đề xuát chính sách nâng cao chất lượng giáo dục của các địa phương

Nguồn: GS.TS. Nguyễn Lân Dũng













Đôi nét về tác giả:
GS, TS, Nhà giáo nhân dân .Nguyễn Lân Dũng là chuyên gia cao cấp Viện Vi Sinh vật  và Công nghệ Sinh học,Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại biểu Quốc hội các khóa X, XI, XII, Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Chủ nhiệm chương trình tự nguyện đưa KHKT vào hộ nông dân; Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội; Chủ tịch Hội liên lạc người Việt Nam ở nước ngoài, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam. Giáo sư Nguyễn Lân Dũng sinh năm 1938 tại xã Ngọc Lập, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông là con thứ ba của GS. Nguyễn Lân và bà Nguyễn Thị Tề là đại gia đình trí thức rất nổi tiếng của Việt Nam với tám người con đều là giảng viên của các trường đại học lớn và đều là những nhà khoa học xuất sắc. Giáo sư Nguyễn Lân Dũng có vợ là  PGS. TS Nguyễn Kim Nữ Hiếu nguyên là Phó Giám đốc Bệnh viện 108 và là người mẹ của hai tiến sĩ đã trưởng thành. GS. Nguyễn Lân Dũng cũng là chủ bút của trang Blog Nguyễn Lân Dũng "già làng" tại Xóm Lá. (Bài post theo đúng bản gốc,
Đôi nét về tác giả và những chữ in đậm là của do chúng tôi nhấn mạnh. Hoàng Kim )


Trở về trang chính
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
(Hoàng Kim để tôi đọc lại)
DẠY VÀ HỌC
(trang tình yêu, văn hóa giáo dục,
khoa học cây trồng và du lịch Việt)

HỌC MỖI NGÀY 
(Những bài tuyển chọn về văn hóa giáo dục
lịch sử, thơ văn)
DẠY VÀ HỌC Ở ĐHNL HCM


Người theo dõi