Lưu trữ Blog

29 tháng 10, 2008

Nước mình làm gì có tham nhũng



Nguyễn Đức Đát

http://nddat.vnweblogs.com/post/2427/101767

Sáng nay uống cà phê, tôi gặp thằng bạn. Lâu lắm rồi mới thấy mặt hắn. Hắn là người dễ xúc động. Việc gì đối với hắn cũng bức xúc. Đọc báo thấy nói tăng giá điện, thu phí chống kẹt xe, ăn chặn hàng cứu trợ...hắn trằn trọc cả đêm không ngủ, chỉ mong trời mau sáng để gặp ai đó xả cơn tức. Gặp tôi, hắn mừng như bắt được vàng. Hắn xả ngay:

- Tham nhũng tràn lan ông ạ. Sờ đến nơi nào là nơi ấy có tham nhũng.

Tôi quặc ngay:
- Nước ta làm gì có tham nhũng. Ông chỉ nghe bọn phản động tuyên truyền bậy bạ thôi.

- Đây ông xem, Tổ chức Minh bạch thế giới xếp Việt Nam ở vị trí cao trong danh sách những nước tham nhũng nặng.

- Ông tin luận điệu của tổ chức ấy làm gì. Đó là âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Chúng hùa nhau làm mất uy tín Đảng và Nhà nước ta đấy.

- Ông chỉ bênh vực cho Nhà nước. Đây vụ PU18, vụ Đồ Sơn, vụ Võ Thanh Bình...báo chí đăng tải ầm ỹ, ông đui à.

- Tôi không đui. Vụ PU18 không có tham nhũng. Tiền đánh bạc của Bùi Tiến Dũng là của cá nhân hắn, không phải tiền tham ô. Cơ quan điều tra giải thích rồi. Vụ Đồ Sơn chẳng qua cán bộ cấp dưới trình độ non yếu, lại hay cả nể. Cán bộ cấp trên công việc lu bu, không quán xuyến hết. Mà cấp vài chục mảnh đất thì nghĩa lý gì. Cán bộ làm việc cho dân, họ phải được cấp đất làm nhà chứ. Có an cư mới toàn tâm phục vụ. Ông Võ Thanh Bình đâu biết đất của bà mẹ Việt Nam anh hùng. Ông nhận đất từ quân đội. Quân đội lại tịch thu từ quân lực chế độ cũ. Số tiền một trăm triệu ông đã nói rõ, không phải tiền chạy chức. Tiền người ta cho con ông, hỗ trợ cháu làm nhà. Việc làm tình nghĩa thôi.

- Nói như ông thì nước ta không có tham nhũng à ? Nhiều vị có nhà rồi còn tham lam nhận thêm đất.

- Thì nhà đông con cái, phải cho chúng ở riêng chứ. Ở chung với bố mẹ mãi sao được. Nước mình làm gì có tham nhũng. Nếu có chỉ là số ít, chủ yếu là người ngoài Đảng. Chế độ ta là chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tôn chỉ đã nói rõ rồi. Cán bộ ta ai cũng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê Nin và đạo đức Hồ Chí Minh. Đố ông nào dám tham nhũng. Ngay nhân dân còn được giáo dục để sống tiết kiệm, không tham nhũng nữa là. Tóm lại, chế độ ta rất ưu việt, đâu có xấu xa, thối nát như chế độ phong kiến, tư bản. Đợt khủng hoảng tài chính vừa rồi, chứng minh hùng hồn: - Bọn tư bản đang giãy chết !. Ông đừng có mắc mưu diễn biến hòa bình của kẻ địch mà nguy đấy.

- Vụ xử hai nhà báo và tướng Quắc, ông thấy thế nào ? Nhà báo chống tham nhũng mà bị bắt, bị xử bị tù thì còn ai chống tham nhũng nữa. Xử thế này thì bọn tham nhũng mừng ông ạ. Tòa xử theo chỉ đạo, chẳng có tính độc lập. Nghe nói vụ này là do hai phe đánh nhau.

- Thế nào là thế nào ? Chuyện không có nói có, có ít lại nói vống lên. Hai nhà báo và tướng Quắc tội rõ rành rành. Nghiệp vụ của Chiến, Hải yếu, nhìn hiện tượng, lại tưởng tham nhũng. Làm gì có tham nhũng. Khi thành lập Ban chỉ đạo chống tham nhũng TW, Ban yêu cầu các địa phương và cơ quan, ban ngành báo cáo tình hình tham nhũng. Nhiều địa phương, ban ngành không báo cáo. Vì tìm mãi không thấy tham nhũng ở đâu. Đơn giản vậy thôi. Không có tham nhũng thì lấy gì báo cáo. Đảng và Nhà nước là một khối thống nhất. Mọi việc đều bàn bạc thấu đáo. Họp hành liên tục. Có thể một vài ý kiến chưa tương đồng. Làm gì có phe phái. Nghe ghê quá. Tòa án của ta xử rất công minh, độc lập, không chịu bất cứ áp lực nào. Một vài vụ do thẩm phán mới, nắm chưa vững luật thôi. Ông cẩn thận cái mồm kẻo mang vạ vào thân.

- Báo chí bị dán băng keo vào mồm rồi, không anh nào dám ho he viết và đăng bài chống tham nhũng nữa.

- Ông lại ngu hơi bị lâu. Làm gì có tham nhũng mà chống. Không có tham nhũng thì quay qua viết về thi hoa hậu, lăng xê các ca sỹ ngôi sao (dù là sao xẹt), kêu ca về tăng giá điện, về môi trường, lũ lụt, kẹt xe, lễ hội, dựng bia tiến sỹ thời đại mới...Thiếu gì chuyện. Ông làm như chống tham nhũng là chống Nhà nước không bằng. Đầu óc ông nhiễm nặng tư tưởng phản động rồi. Về chịu khó đọc báo Nhân dân để củng cố lập trường đi.

- Tôi thấy nước mình càng ngày càng thiếu dân chủ !

- Tôi lại nghĩ khác ông. Nước mình đại tự do dân chủ. Ông đang đi ngoài phố, chợt buồn đi tiểu, dừng xe, chĩa vòi vào gốc cây, tường rào xả thoải mái. Có công an nào đến hỏi thăm sức khỏe đâu. Ngồi ở quán cà phê, ông chửi bới lung tung, có ma nào phê phán ông đâu. Tự do dân chủ như thế là nhất rồi. Mệt với ông quá.

- Nghe ông nói tức anh ách.

- Tức là tức thế nào ? Ông không nghe người nước ngoài họ ao ước: Khi ngủ dậy, thấy mình thành người Việt Nam à ! Tự hào lắm chứ ! Tôi cũng vậy, mỗi sáng ngủ dậy, lòng khoan khoái khi biết rằng mình chưa phải là người Tàu.

- Ông !...

Hắn tắc tỵ trước bức tường kiên cố bảo vệ chính thể. Đáng đời hắn !

26 tháng 10, 2008

“Triết lý giáo dục hiện nay là học thuộc sao cho… thuộc”



Nguyên Ngọc

http://vietimes.vietnamnet.vn/vn/chuyende/5888/index.viet

Giảng đường Việt Nam thế kỷ 21 vẫn còn không ít những giờ học đọc chép, những giảng viên “ê a kinh sử”, những sinh viên thụ động chỉ lên lớp để… ngủ và học nhồi nhét để đối phó với kỳ thi. Căn nguyên sâu sa của những hiện trạng đáng buồn này nằm ở đâu? Bằng vốn hiểu biết và những trải nghiệm sâu sắc với sự nghiệp giáo dục, nhà văn Nguyên Ngọc (NN) sẽ chia sẻ với bạn đọc một góc nhìn về vấn đề này.


NN: Có một sự thật rất lạ ở Việt Nam, đó là học sinh bắt đầu vào đại học thì chơi nhưng lại cắm đầu cắm cổ “dùi mài kinh sử” suốt những năm phổ thông. Điều này phản ánh một sự thật rằng, học sinh của chúng ta đang học để thi, học để có bằng chứ không phải học để chiếm lĩnh tri thức.

Đó là một điều rất nguy hiểm. Tính chủ động tư duy trong đại học thực ra là vấn đề chung của toàn bộ nền giáo dục. Nền giáo dục của Việt Nam không nhằm tạo ra con người tự chủ mà thậm chí nó còn không muốn nhằm tạo ra con người như thế. Nó muốn anh thuộc lòng cho tôi và tôi bảo anh nghe đừng có cãi.

PV: Vậy thì, những giảng đường đọc chép, những thầy cô “ê a kinh sử”, những sinh viên ngủ gật rồi ra đời trở thành những cá nhân thụ động, cam chịu… chỉ là cái bề mặt. Còn cái gốc sâu sa, phải chăng là giáo dục Việt Nam đang thiếu một triết lý, một quan niệm, một tinh thần đúng đắn làm "kim chỉ nam" hành động?

NN: Đúng vậy! Triết lý giáo dục, nói nôm na ra là chúng ta định xây dựng và thực hiện nền giáo dục này để làm gì? Bằng nền giáo dục này, chúng ta muốn đào tạo nên những con người như thế nào đây? Chúng ta định đào tạo nên những con người tự do, biết suy nghĩ và có suy nghĩ độc lập, từ đó là những con người sáng tạo, cho một xã hội tự do và sáng tạo, hay đào tạo nên những con người chỉ biết chấp hành, vâng lời, phục tùng, hết sức dễ bảo.

Triết lý giáo dục sẽ chi phối, chỉ đạo toàn bộ các khâu, các lĩnh vực cụ thể của giáo dục, từ nội dung giáo dục, phương châm giáo dục, phương pháp giáo dục, tổ chức giáo dục…, ảnh hưởng quyết định đến tất cả các cấp của nền giáo dục, từ tiểu học, trung học, cho đến đại học, trên đại học. Kiểu triết lý giáo dục nào thì đưa đến kiểu nội dung, phương châm, phương pháp, tổ chức giáo dục đó.

PV: Nếu xem xét một cách khách quan và quan diện, chúng ta phải thẳng thắn với nhau rằng những nhà tổ chức và quản lý giáo dục cũng đã có những cố gắng khắc phục sự yếu kém của nền giáo dục. Cụ thể là những kế hoạch đưa giảng viên đi tu nghiệp ở nước ngoài, những đổi mới về cơ sở vật chất cũng như phương pháp giảng dạy, chương trình học như sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học, đào tạo theo tín chỉ…Những cải tiến này đang nói lên điều gì, thưa ông?

NN: Theo ý tôi, đó là những cải tiến rất hay của nước ngoài mà chúng ta đi học về và áp dụng lại. Nhưng những cải tiến đó có thể rất hiệu quả với nền giáo dục nước ngoài nhưng khi áp dụng ở Việt Nam lại không có kết quả. Là vì những cái hay đó nằm trong một quan niệm cơ bản của nền giáo dục đó, trong cái tư duy cơ bản mà mình gọi là triết lý giáo dục.

Chúng ta đi học những cái cụ thể đó để mà áp dụng trong một cái cơ bản khác, một hệ thống khác thì tất cả những thứ đã học đều vô nghĩa, thậm chí phản tác dụng. Ví dụ, lý tưởng của giáo dục Mỹ là đào tạo ra những con người độc lập, tự do và dân chủ nên họ quan niệm trước hết là phải tạo ra một nền tảng văn hóa cơ bản cho con người dựa vào đó mà độc lập tư duy.

Chính vì thế, chương trình ỏ các đại học danh tiếng của Mỹ đòi hỏi sinh viên phải học một chương trình cơ bản với các môn như: Hội thảo về phương pháp suy nghĩ, phân tích, nghiên cứu và viết luận văn, khoa học tự nhiên, quy tắc và phương pháp tư duy, khoa học xã hội và hành vi, sử học, triết học, tôn giáo hoặc đạo đức…

PV : Sinh viên Việt Nam trong hai năm đại cương cũng được học gần như là đầy đủ những kiến thức đó?

NN : Hai năm đại học đại cương của sinh viên Việt Nam bị nhồi nhét quá nhiều kiến thức, và theo tôi còn có những môn học rất phí phạm thời gian. Các nhà giáo dục Việt Nam cũng như các học sinh, phụ huynh cần phải xác định học không phải là để thi, như đang diễn ra hiện nay, mà là để chiếm lĩnh tri thức. Và tri thức không phải là vô số những kiến thức chồng chất ngày càng được nhân lên đến như vô tận hằng ngày hiện nay, không cách gì chạy theo, học thuộc lòng cho hết.

Nói cho thật đúng, cần học các kiến thức, rồi sau đó phải biết quên chúng đi, giữ lại cho được cái cốt lõi, tức cách thức tư duy được thể hiện qua việc con người đã phấn đấu như thế nào để khám phá ra được kiến thức đó.

Tôi nhớ có một lần cùng GS Vật lý hạt nhân Phạm Duy Hiển đến dự một giờ vật lý tại một trường phổ thông trung học. GS Hiển đã nhận xét với tôi là thầy giáo là người nắm rất chắc kiến thức nhưng không khí của toàn bộ giờ học thì vô cùng buồn chán. Những kiến thức về vật lý hạt nhân có thể sau này không hữu dụng cho đứa trẻ, nhưng qua buổi học đó, người thầy phải làm cho đứa trẻ được thấy thế giới vi mô vô cùng, từ đó kích thích ở nó sự tò mò với giới tự nhiên, đó mới là cách để rèn luyện tư duy logic, khoa học.

Học tập suốt đời

PV: Vậy phải chăng, việc khơi dậy cá tính chủ động của sinh viên trong trường đại học chủ yếu nằm ở quan niệm giáo dục của những người giảng dạy và cái quan trọng hơn là người thầy muốn truyền cho sinh viên một tinh thần học tập, khám phá tri thức như thế nào?

NN: Đúng rồi, tinh thần của nền giáo dục đó nó thể hiện qua người thầy và nó thấm vào người học. Tôi nhớ hồi học phổ thông, tôi may mắn gặp được một thầy giáo rất giỏi. Ngay hôm đầu tiên vào lớp, ông bảo chúng tôi: "Các anh chị đến đây là để học cách học". Vậy đó, qua dạy kiến thức, ông chủ yếu dạy chúng tôi cách học, tức cách chủ động tư duy độc lập, tự mình đi tìm lấy tri thức. Ông bảo: "Có ai ngồi ở trường được suốt đời đâu, vậy phải học cách học, để rồi tự mình sẽ học suốt đời". Ông cũng không bao giờ dạy cho chúng tôi hết chương trình, mà chỉ dạy chừng hai phần ba, phần còn lại để chúng tôi tự học lấy…

Vậy nhà trường là gì? Nhà trường phải là nơi trang bị cho học sinh những khả năng của chính mình để có thể chủ động đi tìm tri thức, tìm chân lý

PV : Nhà trường Việt Nam đang thất bại trong sứ mệnh đấy đúng không ạ?

NN: Theo tôi, giáo dục Việt Nam không thất bại vì chúng ta xuất phát từ một nền giáo dục khác, từ một triết lý giáo dục khác. Mà triết lý đó là… học thuộc làm sao cho đúng. Và phương pháp, chương trình, nội dung, cách thức giảng dạy… bắt nguồn từ triết lý cơ bản đó. Chương trình học tập của học sinh hiện nay nặng nề là vì bộ Giáo dục cứ đưa đầy kiến thức rồi bắt học sinh học thuộc để lấy điểm, lấy bằng.

PV : Đào tạo theo tín chỉ là một trong những lộ trình quan trọng trong việc đổi mới giáo dục đại học mà bộ Giáo dục đang quyết tâm thực hiện. Cách đào tạo này phải chăng sẽ tạo ra tính năng động rõ rệt hơn trong các trường đại học.

NN: Theo tôi, đào tạo theo tín chỉ sẽ không thay đổi được bao nhiêu bộ mặt của giáo dục đại học, vì cái cơ bản, cái tư duy chung trong hệ thống đó vẫn chưa thay đổi. Anh mới chỉ mang một kĩ thuật mới vào trong một hệ thống cũ cho nên nó sẽ bị chệch choạc

Phần 2: Đừng chấp nhận chân lý khi chưa "tâm phục khẩu phục"


Sơn Khê (Vietimes)

25 tháng 10, 2008

Một thảm hoạ của các buôn làng

Nguyên Ngọc

(Lược trích bài tham luận tại hội thảo)
http://www.sgtt.com.vn/Detail23.aspx?ColumnId=23&newsid=42288&fld=HTMG/2008/1023/42288

Sa mạc hoá Tây Nguyên

Cạo sạch rừng, bóc đi từ 1 – 1,5m đất cho đến quặng, rồi tiếp tục moi hàng chục mét nữa để vét hết quặng, và sau đó kế hoạch hoàn thổ: lấp đất lại, trồng rừng lên, lập làng lại, khôi phục lại cuộc sống cho dân… Theo tôi cái kế hoạch này chỉ là nói chơi, nói đùa cho vui, nếu không phải là nói cho được việc trước mắt. Ai từng ở Tây Nguyên đều biết mùa mưa rừng ở đây dữ dội thế nào, lại trên đất Đăk Nông cao trên 800m và dốc đến 25 độ, hoàn thổ thế nào kịp trước mùa mưa? Sẽ là một cuộc cạo sạch vĩnh viễn và khai thác tàn phá có tính tiêu diệt không hơn không kém. Chắc chắn sẽ để lại một hoang mạc, như nhiều nhà khoa học đã cảnh báo, không chỉ ở đây mà còn ở cả một vùng rộng lớn Nam Trung bộ và Đông Nam bộ. Tai hoạ do chất thải độc từ khai thác bôxit ở trên độ cao và dốc như Đắk Nông chắc chắn còn gấp trăm lần tai hoạ Vedan…

Sự tan vỡ của các buôn làng

Thử đặt lại câu hỏi: Trên hơn 2/3 diện tích của tỉnh Đắk Nông vốn có bao nhiêu rừng và đất của bao nhiêu làng Mnông mà ta sẽ chặt trụi, cạo sạch đi hết rừng, rồi đào bới lên để lấy bôxit, sự tan vỡ của các làng Mnông ngàn đời ấy sẽ đem lại hậu quả gì? Liệu chúng ta có phải chờ đợi một tình hình bất ổn mới, như đã diễn ra trong nhiều năm qua trên cao nguyên này? Lần này có thể còn nặng nề hơn vì nhiều lý do: việc mất đất, mất rừng của dân tộc bản địa rộng lớn hơn, tập trung hơn, dữ dội hơn, tính chất xuyên biên giới rõ rệt và phức tạp hơn. Và lại có yếu tố nước ngoài – một yếu tố nước ngoài không hề đơn giản, đã cắm được vào tận đây thì không dễ, không biết bao giờ mới nhổ đi được, di hại không biết đến bao giờ. Tôi nghĩ cần phải nói ra điều này, hôm nay, nếu không thì sẽ là vô trách nhiệm với đất nước, với lịch sử.

Với những ai từng yêu mến, gắn bó, và cả mắc nợ nữa, mảnh đất và con người ở đây, vấn đề nóng bỏng là: Người Mnông chủ nhân Đắk Nông này, sẽ đi đâu, sẽ ra sao? Có bao nhiêu căn cứ trong những điều mà những người chủ trương dự án, những nhà đầu tư hứa với đồng bào Mnông, với các làng Mnông? Bao nhiêu khả năng ấy là hiện thực? Ai sẽ chịu trách nhiệm nếu đó chỉ là lời hứa cho xong chuyện, cho được việc hôm nay, vì những quyền lợi cấp thời bây giờ?

Những người Mnông bản địa sẽ định cư thế nào, làm gì ở vùng đất mới của họ, và họ đứng đâu trong các nhà máy của chúng ta? Kinh nghiệm suốt hơn 30 năm qua cho thấy, chưa đâu thành công trong việc đưa người bản địa trở thành những công nhân hiện đại. Họ chỉ còn hai còn đường: lui vào rừng ngày càng sâu, bị bần cùng hóa tột độ, ngày càng khốn khổ và bế tắc. Hoặc, ở lại và trở thành người làm thuê đơn giản cho những người nơi khác đến. Ông chủ của họ sẽ là người Kinh (và 26.000 cán bộ, công nhân kỹ thuật như kế hoạch dự kiến sẽ đưa lên đây), và cả những người nước ngoài mà chúng ta không hề mong muốn. Bị đẩy vào tình cảnh tất yếu đó, hoặc họ sẽ là một dân tộc bị suy tàn, mai một; hoặc họ sẽ có phản ứng không thể lường.

Các nhà khoa học đã phác ra bức tranh khá đen tối về môi trường. Tôi xin thử hình dung bức tranh xã hội. Vấn đề môi trường cũng là vấn đề xã hội, là vấn đề dân tộc, và đã là vấn đề dân tộc thì chớ coi thường. Chúng ta đang đứng trước một vấn đề như vậy ở Đắk Nông này. Quả thật nếu cứ dấn tới, tôi không thấy có đường ra. Có quá nhiều hiểm nguy có thể đưa đến thảm hoạ từ một quyết đoán hời hợt.

Dưới góc nhìn của một người am hiểu văn hoá Tây Nguyên, nhà văn Nguyên Ngọc nhận định ngoài yếu tố phá vỡ môi trường, dự án này còn là nguy cơ xoá đi một không gian văn hoá đặc thù của đồng bào các dân tộc thiểu số

11 tháng 10, 2008

Không nên phán vội là viển vông, duy ý chí


GS Chu Hảo

VietNamNet đã có cuộc trao đổi với GS Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường trước thực trạng ĐH Việt Nam muốn vươn lên tầm khu vực, quốc tế đến năm 2020.


"Nghe nhạc hiệu đoán chương trình"

Phải đưa ra tiêu chí đẳng cấp quốc tế là như thế nào rồi mới bàn được. Ví dụ, đã là ĐH nghiên cứu thì hàm lượng NCKH phải rất đậm, được thể hiện bằng các công trình đăng trên các tạp chí đầu ngành của thế giới, mà mỗi ngành như vậy thường có 10-15 tạp chí đầu ngành. Đến bây giờ người ta thừa nhận những tạp chí được thống kê các công trình khoa học trên cơ sở dữ liệu của Viện Thông tin Khoa học ISI (Philadelphia).

Tiêu chí để được các ĐH nghiên cứu gọi là đẳng cấp quốc tế thì phải là số công trình hàng năm của trường đấy trên những tạp chí loại như thế là bao nhiêu. Số giáo sư thực thụ có trình độ giỏi được đo bằng các công trình nghiên cứu là bao nhiêu. Số GS đó trên đầu sinh viên là bao nhiêu. Số các hợp đồng nghiên cứu hàng năm trường đó nhận được là bao nhiêu, qua đấu thầu hay qua vận động...

Tất cả những tiêu chí đó phải được thống nhất với nhau ở một mức độ nhất định nào đấy rồi mới thống nhất là ở Việt Nam có thể xây dựng được trường ĐHĐCQT trong thời gian bao nhiêu lâu. Nếu không rõ tiêu chí đó để so với thực trạng bây giờ thì đề ra tất cả những mục tiêu đều là duy ý chí.

Tuy nhiên, tôi cũng nghĩ tất cả các trường ĐH, kể cả trường ĐH quốc gia của chúng ta, mà tuyên bố đến 2020 là sẽ phấn đấu thành trường tiên tiến trong khu vực hoặc ĐH quốc tế thì chắc là các anh ấy cũng đã xét trên tiêu chí nào đó (!?). Trước khi được nghe kỹ các anh ấy trình bày cũng không nên phán vội là viển vông hay duy ý chí. Biết đâu các anh ấy đã nghiên cứu rất kỹ, đã căn cứ vào thực lực của mình rồi? Thế thì cái đó phải được công bố. Không biết rõ tiêu chí đạt đến là cái gì, thực trạng hiện nay ra làm sao và cách hướng tới như thế nào... thì phê phán cũng khó mà chấp nhận ngay.

Tôi quan niệm rằng, trường ĐH có đẳng cấp quốc tế, nói theo ngôn ngữ chung phải là trường ĐH của VN, giảng dạy theo chương trình của VN. Mời mấy trường ĐH nước ngoài vào đây dạy chủ yếu là theo chương trình, thầy giáo của họ và họ cấp chứng chỉ thì dù có đạt đến trình độ nào đi chăng nữa cũng không phải là nền ĐH của VN. Bản thân tôi cũng nghi ngờ rằng, kể cả những trường đó với điều kiện họ tuyển sinh ở VN mà mang GS sang đây giảng dạy thì cũng chưa hẳn là điều kiện tiên quyết để nói đó là trường ĐH tốt. Bởi vì người ta cử thầy giáo sang đây cũng chưa hẳn là loại hàng đầu của họ mà có thể là loại dở của họ.

Muốn có những trường đẳng cấp quốc tế thì không phải là những trường của nước ngoài, mà phải là những trường của VN hiện nay.

Bắt đầu để có ĐH đẳng cấp quốc tế

Vậy theo ông, muốn xây dựng trường ĐH đẳng cấp quốc tế thì Việt Nam phải bắt đầu từ đâu?

- Bắt đầu bằng cách phải chấn chỉnh nền giáo dục phổ thông cho tốt để có đầu vào tốt vì hiện nay đầu vào của chúng ta đang có rất nhiều vấn đề. Thứ 2 là phải có đội ngũ giáo viên rất tốt, rất giỏi. Các trường phải tìm mọi cách thu hút được GV trẻ, giỏi có trình độ NCKH và tổ chức NCKH tốt.

Hiện nay, căn cứ vào số lượng các bài báo của các trường ĐH VN được thống kê trên ISI thì nó quá ít, chứng tỏ là NCKH yếu. Tiếp đến là cách tổ chức NCKH ở các trường ĐH theo những chương trình đề tài theo kế hoạch, cách làm đó không thích hợp nữa, mà việc quan trọng là phải có được một tập thể nghiên cứu mạnh. Muốn có được như vậy thì phải có người tâm huyết, có trình độ giỏi được mời về và tha thiết gắn bó với trường, do đãi ngộ, do điều kiện CSVC ở phòng thí nghiệm, do mức độ tạo được thông tin và giao lưu quốc tế.

Có ý kiến cho rằng, các trường ĐH có tính chất nghiên cứu đòi hỏi đầu tư rất nhiều, rất lớn và đề nghị nhập phần ĐH của Bộ GD-ĐT vào với Bộ KHCN để có thể tập trung đầu tư cho NCKH, quan điểm của ông về vấn đề này?

- Ý tưởng nhập Bộ KHCN với Bộ ĐH thành Bộ ĐH và nghiên cứu là ý tưởng đã đề ra vài ba chục năm nay rồi. Có lúc người ta đã đi theo mô hình đó, rồi người ta lại tách ra. Do đó, cũng không thể nói được là cái mô hình nào là tuyệt đối hay. Mỗi một mô hình có 1 cái tích cực và có mặt hạn chế của nó, thế nhưng việc không gắn được những kết quả NCKH, không gắn được các viện nghiên cứu vào các trường ĐH thì ở mô hình nào cũng dở.

Như tôi hiểu thì ở rất nhiều nước nghiên cứu cơ bản nói chung, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu công nghệ nền tảng, công nghệ vật liệu thì nên gắn với các trường ĐH. Cũng có một số viện nghiên cứu rất đặc thù còn hầu hết những nghiên cứu công nghệ sản phẩm thì phải do đơn đặt hàng của các doanh nghiệp.

Ở VN những bài báo được đăng ở tạp chí quốc tế hiện nay mới chỉ đang dừng lại ở các ngành Toán, Vật lý, Cơ học, ít có ở các ngành về nông nghiệp, y tế, bảo vệ môi trường là những cái mà nước mình cần hơn trước mắt. Những cái mà Thái Lan họ đã làm được, hay Đài Loan làm được mà mình lại không. Điều đó chứng tỏ định hướng về NCKH của mình có vấn đề.

Bộ KHCN liên kết với các trường ĐH như thế nào trong việc nghiên cứu?

- Hiện nay Bộ KHCN có các chương trình quốc gia sau đó các đơn vị nghiên cứu (các trường ĐH, các viện nghiên cứu) đều được đấu thầu, tham gia các đề tài. Một số cái đặc biệt thì đặt hàng, đấu thầu thì phải công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, cái đó dù có phát huy được hết tác dụng của mình đi chăng nữa thì việc gắn bó giữa các trường ĐH và các viện nghiên cứu là chưa có. Những trường ĐH hoạt động về nghiên cứu chưa gắn bó lắm trong nhiều trường hợp, với các viện nghiên cứu.

Trong điều kiện VN hiện nay có nhất thiết phải xây dựng trường ĐH đẳng cấp quốc tế không, thưa ông?

- Phải đặt kế hoạch xây dựng càng sớm càng tốt. Như tôi đã nói, các nước Singapore, Malaysia, họ đã lên kế hoạch từ những năm 50-60 và bây giờ mới đạt được. Do đó, Việt Nam bây giờ phải có kế hoạch rõ ràng để 20-30 năm nữa mới mong có được ĐHĐCQT. Nhấn mạnh, kế hoạch phải cụ thể sát sao và kiên trì thực hiện kế hoạch một cách quyết liệt. Vì lý do đó nên tôi nghĩ ở trường ĐH nên chọn ra một vài bộ môn hoặc một vài khoa có đủ năng lực để có thể trong 10 năm, 20 năm sau đó lấy mô hình.

Xin cảm ơn ông!

Bảo Anh

10 tháng 10, 2008

Sài Gòn - Hà Nội đi vào đi ra



Nguyễn Thị Ngọc Hải

Sài Gòn - Hà Nội, đi vào đi ra không còn chỉ than thở tiếc cái đã mất, mà là phải làm cái gì hữu ích, khôn ngoan để gửi vẻ đẹp và thêm vào nhiều vẻ đẹp mới…

Hình như chỉ những người lãng mạn, làm văn hóa mới hay tiếc nuối một Hà Nội xưa đẹp cổ kính, êm đềm, còn các vị hoạt động kinh tế, xây dựng thì cho rằng, mô hình phát triển đô thị này không có lựa chọn nào khác. Hà Nội rồi cũng là một chủng loại thành phố như một “công trường xây dựng” nhiều nhà cao tầng với các phố lớn trung tâm, các nút giao thông lập thể, không tránh khỏi phá hủy nhiều khu đô thị truyền thống.

Đô thị uốn nắn tính cách

Nhiều người bây giờ vào ra Hà Nội – Sài Gòn như đi chợ. Ngoài công việc, hội nghị, du lịch, còn bay ra bay vô ăn cưới, đám giỗ, thăm người ốm đau hay đơn giản chỉ là đi vào tránh rét, đi ra hưởng mùa thu vàng.

Tôi có hai người bạn cùng là dân Hà Nội vào Sài Gòn sống đã lâu. Một người đang đi du lịch Mỹ, mail về kể rằng, nếu có ai hỏi tôi thích nhất gì ở nước Mỹ, tôi sẽ trả lời, thích nhất hai thứ, thông tin và… cái toilet. Còn người bạn ở Sài Gòn trả lời là vừa mới đi Hà Nội về, nhưng mà không còn cảm giác được sống ở Hà Nội như những ngày xưa nữa.

Vì sao vậy? Gia đình, bà con họ hàng ai cũng khá lên, xây nhà khang trang, nhưng đều giống nhau ở chỗ chạy bạt ra ngoại ô. “Ngã tư khổ” (Ngã Tư Sở) bây giờ khang trang nhà cửa. Có thể nói, Hà Nội bây giờ có ba thành phần khá rõ: Dân buôn bán ở 36 phố phường cũ với cái tên đầu là “Hàng”. Họ sửa chữa nhà đã cũ, ngồi trên đống vàng buôn bán, coi nhu cầu sinh hoạt là thứ yếu. Nơi đó chỉ nên đến xem, mua bán, chứ không ai muốn ở. Còn thành phần thứ hai là lý tưởng nhất: Nhà gốc gác đủ giàu để trụ lại, không phải bán đi để ra ngoại ô xây nhà. Họ sống ở các phố Tây sang trọng quanh hồ Gươm, hồ Thuyền Quang, các con phố lớn Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Hàng Chuối, xung quanh Chợ Hôm, Cửa Nam, Ba Đình, hay các phố có tên “làng quê” như Xóm Hạ Hồi toàn vila sang trọng. Thành phần thứ ba có thể nói là dân nhập cư vào Hà Nội sau này, dù đã ở rất lâu nhưng không phải “gốc”, đều làm nhà phố ở ngoại ô, sống trong các khu hẻm chợ, trường học. Dù họ có sắm ô tô và có nhà lầu đấy, nhưng xe phải đem gửi vì không vào được ngõ, ngách.

Nhiều người ngoại quốc nhìn Hà Nội không chỉ nói êm đềm thơ mộng với các trí thức đội mũ nồi, áo vải nhăn, đạp xe quanh Bờ Hồ như ngày họ tới Việt Nam. Bây giờ, như ông Franz Xavier Augustin nhận xét trên báo chí: “Hà Nội cổ hơn hẳn những Bangkok, Manila, Jakarta, và tất nhiên, cả Sài Gòn. Dù những thay đổi ùa vào, vẫn có sự kháng cự sự đồng nhất hóa nhàm chán kiểu các đô thị lớn toàn cầu, chống lại việc dỡ bỏ cả một quận như ở Trung Quốc, chống lại nguy cơ McDonald hóa như Sài Gòn, Manila... Một địa điểm lịch sử, không dễ làm hỏng”.

Thật ra Hà Nội bây giờ có tất cả những gì Sài Gòn có. Một cặp vợ chồng nọ có việc nhà phải ra Hà Nội, đóng thùng măng cụt đang mùa, để làm quà cho bà con anh em những nơi sẽ ghé thăm. Vậy mà khi ra tới nơi, sau khi quà phát hết, còn thiếu, chỉ việc mua ngay từ những người buôn thúng bán mẹt các ngõ hẽm cũng đầy măng cụt tươi rói, mà lại… rẻ hơn Sài Gòn mới lạ chứ!

Nhiều anh chị em tự ái khi nghe người thân từ Sài Gòn ra lại đi ở khách sạn. Các anh chị em ai cũng khấm khá, nhà cao cửa rộng không ở, lại đi ở khách sạn! Nhưng chính nhờ cuộc ở khách sạn đó, chị mới phát hiện thêm vẻ đẹp mà trước sống ở Hà Nội, chị không biết. Giống như thời chiến tranh, chị sống ngay ven Hồ Tây, bận làm ăn sấp mặt, có bao giờ nhìn thấy “bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời” như Trịnh Công Sơn nhìn thấy đâu. Lần ra này, chị ở một khách sạn nhỏ số 60 đường Ấu Triệu. Đó là con phố nhỏ xíu bên hông Nhà Thờ lớn Hà Nội, đẹp và thú vị bất ngờ. Ông chủ nhà tên là Quang, một kỹ sư, người Hà Nội gốc, đã nghỉ hưu. Nhà của ông cho thuê kinh doanh khách sạn. “Tôi ở đây từ bé. Xưa phố rất êm đềm, chỉ có hai dãy ngói một tầng. Chín chục phần trăm dân theo đạo, nay cũng đã đi mất nhiều. Chỉ còn độ 20% dân cũ. Người mới đến sống ở Hà Nội, họ kinh doanh , sống kiểu đô thị, nhà nào biết nhà ấy, nhưng nói chung lịch sự, đứng đắn. Trung tâm vậy nhưng rất yên tĩnh, nên thơ. Khách Tây nhiều, họ thường thuê loại phòng 600 ngàn đồng. Và họ quí giấc ngủ vô cùng sau một ngày đi khám phá. Khách trong nước ở miền Nam ra, Việt kiều về, cán bộ các tỉnh ra họp hành, công tác thường chọn loại phòng nhỏ 450 ngàn. Ở phố nhỏ này nhà không được phép cao quá 5 tầng. Một căn nhà rộng khoảng 70 mét vuông có giá 15 tỉ đồng”. Ông chủ nhà rất trí thức, nói vậy.

Đi săn bắt “ con” nghệ thuật

Đó là cách gọi của dân 9x. Họ yêu Hà Nội kiểu khác, không luyến tiếc và đôi khi có những nhận xét giật mình. Hỏi: Vì sao bao nhiêu thay đổi mà người Hà Nội vẫn đứng ở vỉa hè mút kem que Tràng Tiền? Không thiếu gì dân model, hay ông comple xác cặp táp cũng vui vẻ mút kem? Một 9x trả lời: Có thể que kem ấy kích thích nhớ về tuổi thơ, từ cái kem của ông bán rong bóp cái còi tự chế bằng lọ dầu gội từ tuổi thơ ngóng đợi. Hễ cứ đi Bờ Hồ là đồng nghĩa với ăn kem. Dân 9x cũng chẳng quá định kiến các đặc trưng Hà Nội, như phở và mùa thu chẳng hạn. Không còn nhất thiết ăn sáng bằng phở. Vì có nhiều thứ ngon: bánh mì bơ-sữa, xôi bao la, ngô luộc cũng đủ no.

Thế còn Hà Nội thu vàng ai cũng bảo đó là mùa đẹp nhất, bài hát cũng thế. Mà dân 9x lại bảo Hà nội đẹp nhất là mùa đông. “Quần áo đẹp cực. Ăn gì cũng ngon. Mùa đông người ta chạy xe từ tốn hơn, phố phường dịu hẳn lại. 9x rủ nhau uống trà đá chuyện vãn, người lớn ngồi cà phê. Vãn chuyện là trả tiền, kết thúc là lượn hồ rồi về. Lượn hồ toàn xe máy hưởng khí lạnh thổi nhẹ. Người lớn quanh Hồ Gươm, đám trẻ lên Hồ Tây, có khi chạy thẳng lên khu Lạc Long Quân. Khu bãi đá gọi là “biển”, đoạn sông Hồng cạn nước, gần đê”. Chỉ dân trẻ mới cảm thụ nhiều và biết cái đẹp mùa đông. Đơn giản vì họ còn đang đi học, đi chơi chứ không xuýt xoa phải đi làm trong giá rét chỉ trông mau chóng “trốn” vào nhà. Còn 9x thì ra đường, đi chơi! Đừng định kiến với 9x nhé. Người ta “sợ” vì ăn chơi, ít học hành. Đi xin việc làm thêm phải khai gian cho “già” lên, vì khoảng 20 hơn chút với 9x là “già rồi”. Đúng là họ có thú vui riêng. Vào các nhà vệ sinh của khách sạn, trung tâm lớn thơm tho, đầy gương, tụ tập nhau chụp ảnh “tự sướng”. Không bậy bạ cả đâu nhé, mà nghịch ngợm, ăn mặc kỳ quái. Chứ còn đám sex thì là bọn lớn hơn chút, lên sàn bar ăn chơi. 9x tổng kết riêng, mặc cho ai giận: “Nói là việc của người Hà Nội, từ bà bán chè đến ông giám đốc. Vì không có chỗ hành động nên nói nhiều!”.

Nhạc sĩ Dương Thụ phát biểu: Nếu biết nói, Hà Nội sẽ không nói mà im lặng thở dài tiếc nuối, đã mất quá nhiều giá trị truyền thống văn hóa. Một 9x bảo: Đồng ý. Nhưng đó là chuyện của người lớn. Còn dân 9x hăng hái đi tìm, tận hưởng cái đẹp của Hà Nội hôm nay. Họ gọi là những cuộc đi săn bắt “con” nghệ thuật.

“Thế này. Hẹn nhau một địa điểm. Đi xe máy. Ăn mặc phong cách phù hợp với nơi đến. Trang phục phá cách, thí dụ quần ngắn, vớ đen, áo da, điểm nhấn là dải khăn dài lụa đỏ, loại lụa thô, nốt sần của vải nổi trong hình. Một cô gái có chàng trai làm nền, chàng đi giày basket, quần sáng màu, áo khoác tối. Seri ảnh có tên hẳn hoi “Vương vấn mùa đông”. Tuổi trẻ, vẻ đẹp hiện đại trong sương lãng đãng của Hà Nội cổ xưa được chắt chiu tích cực. Có những cái tên hỏi người lớn không ai biết cả. Thí dụ ở Hồ Tây có “ bến Hàn Quốc” vì bên lan can hồ sen giống cảnh phim Hàn. Có cả bến Nhật Bản, Ấn Độ mà chỉ dân 9x gọi với nhau mới biết.

Nhà nghiên cứu đô thị Anh Heinz Paetzold giải thích: Khái niệm về tính địa phương đương đại không phải là sự hoài cổ, mà cũng không phải là quay về với thực tiễn của khu vực. Nó mô tả kiến trúc, cố gắng diễn đạt lại nền văn hóa khu vực theo quan điểm văn hóa thế giới đang tồn tại ngày nay”...

BOX - “Hà Nội cổ hơn hẳn Bangkok, Manila, Jakarta, và tất nhiên, cả Sài Gòn. Dù những thay đổi ùa vào, vẫn có sự kháng cự sự đồng nhất hóa nhàm chán kiểu các đô thị lớn toàn cầu, chống lại việc dỡ bỏ cả một quận như ở Trung Quốc, chống lại nguy cơ Mc Donald hóa như Sài Gòn, Manila… Một địa điểm lịch sử, không dễ làm hỏng”.

( Theo Người Đô Thị)
http://www.viet-studies.info/kinhte/NTNgocHai_SaiGonHaNoi.htm

6 tháng 10, 2008

Xin can



Nguyên Ngọc

HOCMOINGAY. Trên những tấm bia đá mà hàng ngàn con rùa tội nghiệp sẽ phải còng lưng vốn đã còng của chúng để đội đó, hẳn các nhà chủ trương và thực hành Văn Miếu hiện đại sẽ khá lúng túng trước trường hợp Tạ Quang Bửu. Nhất định là ông không thể có mặt trên bảng vàng bia đá đó rồi, bởi ông thuộc một nền văn hóa khác, nền văn hóa của tri thức thật sự, chứ không phải của tri thức bằng cấp tràn lan đang là tai nạn xã hội của chúng ta bây giờ.

Vừa đọc thấy tin ra mắt Trung tâm bảo tồn di sản tiến sĩ Việt Nam thời hiện đại, trong đó có hẳn mấy mươi hecta dành cho một Văn miếu ghi danh các tiến sĩ thời nay; lại còn thấy kể rằng sẽ có rùa đội bia đá khắc tên chư vị tiến sĩ. Một tờ báo trân trọng đưa tin và đưa ảnh một vị giáo sư tiến sĩ hăng hái mang đến tặng ngay trung tâm một "di vật" cực quý: bức ảnh ông ta chụp cùng một vị Thủ tướng, lại có ảnh ông ngồi viết những dòng quý giá vào sổ lưu niệm của trung tâm nữa. Được biết vị tiến sĩ hăng hái này cũng chính là một trong những người từng chủ trì Hội đồng phong chức giáo sư và phó giáo sư nhiều tai tiếng…

Đọc tất cả những tin đó, khá dồn dập trong mấy ngày nay, mà lo quá! Ừ thì có nơi nào đó lo việc lưu giữ những tài sản trí tuệ của đất nước này nay là việc nên làm, nhưng lưu giữ tài sản trí tuệ của đất nước là lưu giữ tên tuổi của các tiến sĩ chăng? Tôi nghĩ ngay đến một nhân vật chắc chắn cho đến nay vẫn được sự kính trọng của mọi người như một nhà trí thức lớn của Việt Nam, một đầu óc uyên bác, một nhà giáo dục kiệt xuất, một nhân cách cao quý, từng có đóng góp rất quan trọng cho một thời kỹ khá rạng rỡ của giáo dục đại học ở nước ta: Tạ Quang Bửu. Theo chỗ tôi được biết, và tôi đã kiểm tra lại trí nhớ bằng cách, hỏi kỹ lại nhiều người am hiểu: Tạ Quang Bửu là người không hề có bất cứ một bằng cấp nào hết. Có người còn kể: Ông theo học rất kỹ một ngành, đến khi sắp lấy bằng ở ngành đó thì bỏ, chuyển sang một ngành khác, cứ thế, hàng chục ngành… Vì sao? Vì ông quan niệm học là để chiếm lĩnh tri thức chứ không phải để lấy bằng, để thành tiến sĩ này tiến sĩ nọ; cũng rất có thể từ rất sớm ông đã nhận ra điều hết sức quan trọng đối với một người trí thức ngày nay - mà mãi sau này Edgar Morin mới nói – là: trong thời đại ngày nay một tri thức thật sự không phải, không thể là tri thức đơn lẻ, bị chia cắt, cục bộ, phiến diện, mà phải là người "liên kết các tri thức", có vậy mới thật sự chiếm lĩnh được thế giới vô cùng phong phú và cũng vô cùng phức tạp này? … Tôi hình dung với số lượng tiến sĩ đã có – và sẽ còn có theo kế hoạch đào tạo vài trăm ngàn tiến sĩ của Bộ Giáo dục và Đào tạo -, hẳn số lượng các bia đá phải nhiều gấp chục lần số bia đá ở Văn miếu Hà Nội (chẳng chơi, một kỷ lục ghi-nét mới của Việt Nam, chắc hẳn thế giới không sao theo kịp!). Trên những tấm bia đá mà hàng ngàn con rùa tội nghiệp sẽ phải còng lưng vốn đã còng của chúng để đội đó, hẳn các nhà chủ trương và thực hành Văn Miếu hiện đại sẽ khá lúng túng trước trường hợp Tạ Quang Bửu. Nhất định là ông không thể có mặt trên bảng vàng bia đá đó rồi, bởi ông thuộc một nền văn hóa khác, nền văn hóa của tri thức thật sự, chứ không phải của tri thức bằng cấp tràn lan đang là tai nạn xã hội của chúng ta bây giờ.

Vậy nên chuyện văn miếu với bia đá tiến sĩ hiện đại không chỉ là chuyện tốn kém, tiền nong và đất đai, cũng không chỉ sẽ là chuyện đấu đá khốn khổ và xấu xa để chen chân vào cái chốn lưu danh thiên cổ chắc chắn sẽ xảy ra ở một đất nước vốn chuộng hư danh này, mà còn là, trước hết là chuyện một nền văn hóa, tiếp tục và tăng cường văn hóa bằng cấp chăng? hay là kiên quyết bằng mọi cách châm dứt đi, chôn vùi đi, để có được một không khí văn hóa, tri thức lành mạnh, dễ thở hơn, văn minh hơn đôi chút.
Lưu giữ, bảo tồn tri thức ư? Tất nhiên là cần quá đi chứ. Nhưng cần kíp hơn, cấp bách hơn là tôn trọng thật sự trí thức ngay bây giờ, tạo điều kiện cho người ta làm việc, và sống, trước hết là tự do tư tưởng và sáng tạo. Hàng ngàn tấm bia đá không bằng không, nếu không thật sự có tự do suy nghĩ và sáng tạo cho người trí thức!

Tôi cũng không thể không hình dung vô số chuyện khôi hài sẽ diễn ra khi thực thi sáng kiến văn miếu vĩ đại này. Chẳng hạn, tôi có được biết một vị cứ mỗi lần viết một bài báo lại trịnh trọng ký tên: "Lưỡng quốc tiến sĩ". Chả là ông ấy từng có bằng tiến sĩ mỹ học ở Liên Xô (cũ), nơi bên cạnh việc giúp đỡ ta to lớn về giáo dục, cũng đã từng hại ta với không ít bằng tiến sĩ hữu nghị; sau đó lại có một cái bằng tiến sĩ nữa về ngữ văn ở Việt Nam. Không biết các vị làm Văn Miếu hiện đại sẽ ghi danh ông ở đâu và bằng cách nào? Lưỡng quốc tiến sĩ kia mà, duy nhất toàn quốc đấy, chắc chắn ông ta sẽ đòi được đứng ở tấm bia đầu tiên, và lớn nhất, và khắc bằng chữ đỏ, thật to nữa kia. Có khi còn đòi dựng tượng đồng nữa là khác!

Đã có không ít chuyện khôi hài hiện đại rồi, đừng thêm làm gì nữa.

Một anh bạn ở nước ngoài, người rất tâm huyết với mọi chuyện kinh tế văn hóa của đất nước, vừa viết mấy chữ, ngắn mà thống thiết: Xin can! Xin can!

Tôi cũng vậy: Xin can!

Báo Tia Sáng
http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=76&News=2388&CategoryID=3

2 tháng 10, 2008

Thi nhân trong thơ Trần Quang Khải

Nguyễn Huệ Chi

Trần Quang Khải,tự Chiêu Minh, sinh vào mùa đông năm Tân Sửu (1241), là con trai thứ ba Trần Cảnh (Trần Thái Tông). Dưới triều Trần Thánh Tông, ông giữ chức Tướng quốc thái úy, tước Đại vương; được thăng chức Thượng tướng Thái sư dưới triều vua Nhân Tông. Cùng với Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải cũng là một nhân vật trọng yếu của vương triều, đã đóng góp nhiều công sức vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông (1284 - 1288), ông đã tham gia trận phản công lớn, đánh tan quân giặc ở Hàm Tử và Chương Dương, giải phóng Thăng Long.

Trần Quang Khải là người học rộng, biết nhiều, văn võ song toàn, ngoài ra ông còn là một nhà ngoại giao, nhà thơ có tài.

Trong số các thi sĩ - chính khách thời Trần, Trần Quang Khải có lẽ là người để lại cho người đọc một ấn tượng tươi tắn mà sâu đậm. Trước hết, tuy chỉ còn lại vẻn vẹn có 10 bài thơ thôi (Trong 10 bài thơ này thì có một bài Đề đền Bạch Mã, chỉ được chép trong Việt điện u linh tập, một bài Hạ Hồ Thành trúng Trạng nguyên, e không đúng, và một bài Đề dã thự trùng với bài Tĩnh Bang cảnh vật của Trần Tung trong Thượng Sĩ ngữ lục. Điều kiện tư liệu hiện nay chưa cho phép khẳng định dứt khoát vấn đề tác giả đích thực của các bài đó), song, thơ ông bài nào cũng mang cốt cách khoáng đạt của một thi nhân cỡ lớn. Trần Quang Khải có làm thơ xã giao thù tạc cũng là cái thù tạc không cần phải gắng gượng hay khách sáo, mà trái lại dung dị, tự nhiên, hiếm người có được:

Nhất đàm tiếu khoảnh ta phân quệ,
Cộng xướng thù gian, tích đối sàng.
(Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh) (Tức Sài Thung)
(Vừa nói cười đó mà thoắt đã ngậm ngùi dứt áo,
Tiếc những lúc hai giường đối diện, xướng họa cùng nhau).

Và Trần Quang Khải có ngắm nhìn đồng quê trong tư cách một vị chủ nhân trang trại thì vẫn là cái nhìn đột xuất, tình tứ khác thường:

Dã thự tân khai, cảnh vật tân,
Phương phi đào lý, tứ thời xuân.
Nhất thanh ngư địch, thanh lâu nguyệt,
Kỷ phiến nông thoa, bích lũng vân.
(Đề dã thự)

(Trang trại mới mở, cảnh vật thật mới mẻ,
Đào mận tốt tươi, xuân suốt cả bốn mùa.
Một tiếng sáo trẻ chăn trâu, xanh thêm mặt trăng trên lầu,
Vài tấm áo tơi nông phu, biếc hẳn đám mây dưới lũng).

Sau nữa, ấn tượng tươi tắn của chúng ta đối với Trần Quang Khải - thi nhân còn ở chỗ, ta biết tác giả những vần thơ khoáng đạt này là một vị Thái sư Thượng tướng, cùng với Trần Quốc Tuấn là hai nhân vật đứng đầu hàng văn và hàng võ, đã từng góp nhiều công lao hiển hách vào công cuộc dựng nước và giữ nước đời Trần. Là con trai thứ ba vua Trần Thái Tông, em ruột Trần Thánh Tông, sinh năm 1241 và mất năm 1294, với tước Chiêu Minh vương, Trần Quang Khải đã thực sự đóng một vai trò chủ chốt trong triều chính nhà Trần suốt nhiều năm tháng, kể từ khoảng mươi năm sau cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ nhất (1258). Ròng rã gần hai thập niên tạm gọi là hòa bình mà kỳ thực là chuẩn bị lực lượng rất khẩn trương ấy, với cương vị một ông quan đầu triều, Trần Quang Khải đã ra sức chèo chống về nội trị, ngoại giao, đưa vương triều Trần vượt qua nhiều thử thách, nhất là những cuộc đấu trí mệt nhọc, căng thẳng với đám sứ giả Nguyên Mông. Những bài thơ ông làm trong các dịp này cũng giống như những bài thơ tiếp sứ của Trần Nhân Tông và nhiều người khác, có cái mềm mỏng, nhún nhường về lời lẽ, nó là một sách lược nhất quán trong quan hệ nhiều đời giữa nước ta với các đế chế phương Bắc vốn luôn luôn tự thị vào cái "lớn", cái "khỏe" của mình:

Khẩu hàm uy phúc quân bao biếm,
Thân bội an nguy quốc trọng khinh.
Cảm chúc tứ hiền quân phiếm ái,
Hảo vi noãn dực Việt thương sinh.
(Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh, Lý Chấn Văn đẳng).

(Miệng nói lời oai phúc thay vua mà khen chê,
Thân mang theo sự an nguy quan hệ đến việc lớn nhỏ của nước nhà.
Dám xin cầu chúc bốn vị sứ giả hiền tài có lòng yêu thương rộng lớn,
Ra sức che chở cho con dân nước Việt).

Nhưng hết sức mềm mỏng đấy - và có thể không kém thân tình nữa kia đấy - mà vẫn giữ được hiên ngang cứng cỏi sau từng chữ từng câu, nó là cái tư thế bình đẳng của chủ đối với khách, cái phong thái đàng hoàng của những con người luôn luôn tự chủ được mình:

Tống quân quy khứ độc bàng hoàng,
Mã thủ xâm xâm chỉ đế hương.
Nam Bắc tâm linh huyền phản bái,
Chủ tân đạo vị phiếm ly trường.
Nhất đàm tiếu khoảnh, ta phân quệ,
Cộng xướng thù gian, tích đối sáng.
Vị thẩm hà thời trùng đổ diện,
Ân cần ác thủ tự huyên lương.
(Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh)

(Tiễn ông ra về, mình tôi luống những bâng khuâng,
Ngựa xăm xăm hướng về nẻo quê hương nhà vua.
Nỗi lòng Nam Bắc lưu luyến trên ngọn cờ người ra đi,
Tình chủ khách dạt dào trong chén rượu giã biệt.
Vừa nói cười đó mà thoắt đã ngậm ngùi dứt áo,
Tiếc những lúc hai giường đối diện, xướng họa cùng nhau.
Biết bao giờ lại được gặp mặt,
Để nắm tay ân cần kể nỗi hàn huyên).

Thế rồi, khi tình thế xã tắc không còn tài nào ngăn được cuộc xâm lăng ào ạt của lũ giặc Mông Thát, Trần Quang Khải lập tức cởi áo phòng văn, khoác áo tướng sĩ, dẫn đầu một đạo quân, ra đi. Và cứ thế, dưới quyền tiết chế của quốc công Trần Quốc Tuấn, ông xông pha trận mạc khắp nơi, hết Nghệ An ra Thăng Long, lại đi các trấn phía bắc... cho đến ngày toàn thắng.

Cái tấm lòng hăng hái bất kỳ việc gì cũng không từ nan, cũng thung dung nhận lấy và làm hết mình đó, Trần Quang Khải giữ được cho mãi đến già. Và cái nét dung dị mà khoáng đạt, hào hùng trong con người ông cũng vậy, vẫn là một cốt tính đặc sắc làm trẻ trung mãi ngòi bút của nhà thơ. Bài thơ Cảm xuân có lẽ làm ít lâu trước lúc mất là biểu hiện kết hợp cả hai mặt khoáng đạt và hăng hái nói trên.

Vũ bạch phì mai tế nhược ti,
Bế môn ngột ngột tọa thư si.
Bán phần xuân sắc nhàn sai quá,
Ngũ thập suy ông dĩ tự tri.
Cố quốc tâm tùy phi điểu quyện,
Ân ba hải khoát túng lân trì.
Sinh bình đởm khí luân khuân tại,
Giải đảo đông phong phú nhất thi.
(Cảm xuân, I)

(Lâm râm mưa bụi gội hoa mai,
Khép chặt phòng thơ ngất ngưởng ngồi.
Già nửa phần xuân cam bỏ uổng,
Tới năm chục tuổi biết suy rồi.
Mơ màng nước cũ chim bay mỏi,
Khơi thẳm nguồn ân, cá khó bơi.
Đảm khí ngày nào rày vẫn đó,
Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi!)
(Ngô Tất Tố dịch)

Bài thơ gợi một cảm xúc thực man mác, bâng khuâng! Trước mặt người đọc hiện ra hai con người: một người thơ và một anh hùng. Người thơ ngồi lặng trong phòng như si như ngây, suy tưởng mênh mang về đất nước, về tuổi trẻ và những tháng năm đã trôi vào dĩ vãng; còn người anh hùng thì luôn luôn tỉnh táo, nghiêm trang canh giữ xã tắc trong bao nhiêu năm không lúc nào lơi lỏng, và vẫn chờ đợi với tấm lòng hăng hái những nhiệm vụ hệ trọng mà xã tắc phó thác cho mình! Tưởng chừng hai con người là hai nhân vật khác hẳn nhau, đồng hành trên suốt một chặng đường dài... vừa chẵn năm mươi năm. Nhưng nào đâu có phải! Phải nói, có được cái mê si đầy khoái cảm của chàng thi nhân kia - mê si trong khung cảnh yên bình, nhàn nhã của đất nước - cũng là nhờ cái tỉnh táo trường kỳ, không biết mệt mỏi của người tráng sĩ nọ, và quả tình là ở phần cuối bài thơ, cả anh hùng và thi nhân đều đã nhập trở lại trong một hình tượng nhất trí. Cảm hứng của người thơ có vẻ như lâng lâng, dàn trải ở phần đầu, đến đây cũng được xác định lại cụ thể, là niềm hứng khởi, là ý thức sắc bén trước nhiệm vụ đối với đất nước, đúng y như cảm hứng của anh hùng:

Sinh bình đởm khí luân khuân tại,
Giải đảo đông phong phú nhất thi.
(Chí khí dũng lược lúc bình sinh hãy còn hăng hái,
Muốn quật ngã gió đông mà ngâm lên một bài thơ).

Như vậy, nền tảng của sự thống nhất giữa hai con người trong thơ Trần Quang Khải chính là sức mạnh và yêu cầu thường trực về sự vững mạnh của xã tắc giang sơn; nhờ có nó người ta nhận thức được rằng mình vẫn còn và tất yếu phải còn nguyên "đởm khí" - dồi dào sức trẻ. Cũng nhờ có nó, mặt khác, người ta lại cảm thấy cái hạnh phúc được sống và quên bẵng rằng mình đang sống, nghĩa là được thoải mái đắm mình theo nhịp trôi chảy của thời gian, để rồi đôi khi nhìn lại mà bỗng thốt giật mình.

Sự thống nhất giữa người thơ và anh hùng trong thơ Trần Quang Khải còn là sự thống nhất giữa hai bình diện khác nhau của cùng một con người Việt Nam ở thời đại Lý - Trần: con người biết mê mải vui say trong nhiều niềm vui của cuộc sống đang lên, và ngược lại, cũng biết tự cảnh giác với mọi đam mê vô ích, để nhân sức mạnh của mình lên mà tỉnh táo chống trả với mọi kẻ thù đang dòm ngó sơn hà xã tắc.

Con người đó, ngay trước khi bước vào giấc ngủ cũng đã mở to con mắt: "đề phòng" dõi nhìn về những miền biên giới thân yêu:

Nam vọng lang yên vô phục khởi,
Đồi nhiên nhất tháp, mộng thiên an.
(Phúc Hưng viên)
(Trông về Nam khói lửa không còn tái diễn,
Trên giường nằm ngủ yên tâm trong giấc mộng).

Con người đó, giữa lúc chuếnh choáng vài chén giải khuây vẫn không quên phận sự, trái lại, còn biết nâng cao tấm lòng tráng chí: "Vỗ thanh gươm cũ nhớ non xưa", làm cho sự giải khuây tăng thêm phần ý nghĩa:

Khử sầu lại hữu tam bôi tửu,
Phủ kiếm du du ức cố sơn.
(Cảm xuân, II)

(Tiêu khiển nay nhờ ba chén rượu,
Vỗ thanh gươm cũ nhớ non xưa)
(Ngô Tất Tố dịch)

Và con người đó, khi soi bóng trên dòng sông mà mặc cảm về mái tóc bạc trắng, cũng vẫn giữ được niềm lạc quan thanh thản, vì biết tin vào lịch sử trường tồn của đất nước, nó là cái bảo đảm vững chắc nhất cho những gì còn lại của cá nhân mình và sự nghiệp của mình:

Thái bình đồ chí kỷ thiên lý,
Lá đại quan hà nhị bách niên.
Thi khách trùng lai đầu phát bạch,
Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên.
(Lưu Gia Độ)

(Cơ đồ đất nước lúc thái bình rộng mấy nghìn dặm,
Non sông nhà Lý trải hai trăm năm.
Khách thơ trở lại đây đầu đã bạc,
Hoa mai như tuyết chiếu xuống lòng sông buổi trời tạnh).

Từ một con người đặc sắc nhiều mặt như thế, Trần Quang Khải đã để lại rất nhiều mối cảm tình cho người đọc thơ ông. Có thể nói, chân dung một Trần Quang Khải nhà thơ đã hòa quyện với chân dung một Trần Quang Khải ở trong sử sách, cũng như một Trần Quang Khải ở trong sử sách, đã làm giàu thêm sức sống và thi liệu cho một Trần Quang Khải trong thơ. ấn tượng sâu sắc của người đọc thơ Trần Quang Khải càng trở nên rất đẹp khi được gắn liền với những giai thoại trong mối quan hệ giữa ông và Trần Quốc Tuấn: hai ông đã vì việc nước lúc ấy mà bỏ hết hiềm khích cũ, trở thành hai ông quan đầu triều gương mẫu, cũng là hai người anh em rất mực thân tình. Đại Việt sử ký toàn thư đã có những dòng rất cảm động để kể về điều này: "Một hôm Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp đến, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới về. Lại tính Quang Khải lười tắm gội, Quốc Tuấn thì thích xông tắm, từng nói đùa với Quang Khải rằng: "Thân cáu bẩn xin tắm giùm". Rồi Quốc Tuấn cởi áo Quang Khải ra, lấy nước thơm tắm cho ông và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng". Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm cho". Từ đấy hai người vui chơi với nhau, tình thân càng mặn" (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Tập II. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967, tr.72).

Trong vô vàn cái đẹp của đời sống, tưởng không có gì đẹp hơn là những con người biết tự vượt mình. Nhưng trong số những con người biết tự vượt mình, tưởng không có gì cao cả hơn là những người biết gắng sức theo cùng tầm thước lịch sử mà lớn vượt lên. Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải và nhiều nhân vật đời Trần đã chiến thắng oanh liệt kẻ thù phương Bắc và sống mãi cho đến ngày nay, chính là những con người như vậy!

*
* *

Nhưng tất cả những điểm nổi bật ở thi sĩ Trần Quang Khải mà ta vừa viện dẫn cũng sẽ không hoàn toàn thu hút được sự chú ý rộng rãi của các thế hệ sau, nếu như trong văn nghiệp của ông không có một bài thơ tuyệt tác: bài Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá trở về kinh). Bài thơ làm vào khoảng những ngày cuối thượng tuần tháng Bảy năm 1285, tức là trong những ngày thắng lợi tưng bừng của cuộc kháng chiến lần thứ hai. Ngày 9 tháng Bảy năm này, Trần Quang Khải được lệnh hộ giá hai vua Trần trở lại kinh đô đã sạch bóng quân giặc. Và bài thơ của ông đã ra đời vào dịp ấy, gồm vẻn vẹn 4 câu thơ 5 chữ:

Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.

Bốn câu thơ thật ngắn gọn, ý tứ cũng không có gì hóc hiểm, nhưng đã sống trong mọi trí nhớ, đem lại niềm bồi hồi, xúc cảm cho rất nhiều thế hệ, không khác gì một bài Bình Ngô đại cáo, một bài Hịch tướng sĩ, một bài Nam quốc sơn hà.

Hãy bàn về hai địa danh Chương Dương, Hàm Tử của bài thơ. Đối với tác giả thì đây là những sự kiện hãy còn quá mới mẻ. Chỉ mới trước khi ông đặt bút viết bài thơ đúng hai tháng thôi, hai trận thắng oanh liệt Chương Dương, Hàm Tử đã diễn ra, làm kinh hoàng quân giặc, và cũng mở ra cơ hội để quân Trần lật lại thế cờ. Nhưng mới có hai tháng mà hai địa danh chưa ai quen biết đã bước hẳn vào địa hạt của thơ, y như những điển cố quen thuộc nói về chiến công vẫn thường gặp trong sách vở. Trước Trần Quang Khải, chiến công anh hùng của dân tộc cũng đã có nhiều, và thơ nói về chiến công cũng không ít, nhưng một địa danh cụ thể của một chiến công nào được văn thơ ghi lại thì chưa hề có. Thế mà ở đây, lần đầu dùng những địa danh Việt Nam để nói về chiến trận, người viết lại không chút bỡ ngỡ, lúng túng, trái lại, vẫn dồi dào cảm xúc. Đấy quả là điều lạ!

Vậy, cái lý do gì làm cho Trần Quang Khải nói đến Chương Dương, Hàm Tử mà xúc động thành thơ? Phải nói đây là hai cái tên tượng trưng cho cả một chiến dịch lớn của quân dân nhà Trần. Bấy giờ, sau nhiều ngày tháng liên tiếp đuổi theo hai vua Trần không có kết quả, đạo quân Nguyên Mông hùng hổ và kiêu căng, chỉ biết ỷ vào sức mạnh đã dần dần lâm vào thế bị động. Hai vua Trần và Trần Quốc Tuấn liền hạ lệnh cho quân sĩ phản công. Tháng Năm năm 1285, Trần Nhật Duật cùng một số tướng sĩ được lệnh đem quân đến đón giặc ở cửa Hàm Tử - nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Giặc Nguyên đại bại. Thừa thắng, Trần Quang Khải cùng một số tướng sĩ khác lại được lệnh đem quân đánh úp Chương Dương - nay thuộc huyện Thường Tín, Hà Tây. Cuốn Kinh thế đại điển tự lục đời Nguyên đã thừa nhận: "Thủy lục đến đánh vào đại doanh, vây thành mấy vòng, tuy chết nhiều nhưng quân tăng thêm càng trở nên đông. Quan quân - nhà Nguyên - sớm tối đánh rất khốn đốn, thiếu thốn, khí giới đều kiệt" (Dẫn theo Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ 13, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968, tr. 235). Và thế là bắt đầu một cuộc tháo chạy của đám tàn quân Trung Quốc ra khỏi thủ đô của Đại Việt, rồi từng bước, từng bước rút lui thục mạng về nước.

Trên đường trở về kinh đô đúng giữa ngày toàn thắng, tất cả những hình ảnh sốt dẻo của cái chiến dịch mà chính mình vừa tham gia, chắc vẫn chưa thôi xôn xao trong tâm trí Trần Quang Khải, chưa hết làm ngạc nhiên, sảng khoái tâm hồn nhà thơ. Cái nhân tố gì đã giúp cho non sông xã tắc ta giành được thắng lợi? Trước một kẻ địch thiện chiến và kiêu hùng đến như vậy, làm sao quân ta lại có thể giáng cho chúng những đòn thất điên bát đảo, và thần tốc đến chính người trong cuộc cũng ít ai có thể ngờ? Lạ lùng quá đi thôi! Nhưng mà sự thực vẫn còn kia: này đây là Chương Dương, này đây là Tây Kết, này đây là Hàm Tử. Lòng nhà thơ bỗng rộn lên một niềm bâng khuâng khôn tả. Ông ngẫm lại những ngày long đong xa giá triều đình đã phải ra đi, ngẫm lại bao nhiêu cái giá đã phải trả cho cuộc chiến thắng... và đột nhiên, một chân lý bỗng lóe hiện trong óc ông: chiến thắng này phải đâu giờ đây mới đến. Nó đã được chuẩn bị từ ngày đất nước còn thanh bình. Vì chính vào những ngày đó, cả nước đã biểu hiện sự chung sức chung lòng; người trên biết "nới sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc"; kẻ dưới biết quyết tâm "Sát Thát" và có tinh thần thắng giặc. Chân lý đến với Trần Quang Khải và cảm hứng thi ca cũng đến cùng một lúc. Nhà thơ thấy không thể không thốt lên, bằng những lời rất tiết kiệm và súc tích, để nhắc nhở con cháu, cũng là để nhắc nhở với lòng mình:

Cướp giáo Chương Dương đó!
Bắt thù Hàm Tử đây!
Thái bình nên gắng sức,
Muôn thuở nước non này!
(Trinh Đường dịch)

Không có gì gọn ngắn và đơn giản hơn nữa. Quả là buột thốt thành thơ! Song cái ý chứa đựng bên trong, cái ý nhắc nhở của nhà thơ, thì không chút tầm thường và đơn giản. ở đâu và bao giờ cũng cần một lời nhắc như vậy! Những chiến công chói lọi của ông cha thật đáng tự hào cho con cháu. Nhưng càng tự hào, càng không quên quá khứ, thì càng phải làm sao sống những phút giây hiện tại cho thật ý nghĩa. Trên hay dưới, ai cũng như ai, đều phải sử dụng thích đáng từng phút từng giây thanh bình vô giá đó. Có thế mới xứng đáng tiếp nối được cái "nước non" mà cha ông trao vào tay mình, mới làm cho "nước non này" trở thành "nước non muôn thuở".

*
* *

Hơn một trăm năm sau bài thơ của Trần Quang Khải, chúng ta lại được đọc bài Quá Hàm Tử quan của Trần Lâu, một nhà thơ đồng thời là nhà giáo đời Hồ. Không ai biết nhiều về cuộc đời và văn nghiệp của nhà thơ họ Trần này, chỉ biết ông đỗ đến Tiến sĩ (Thái học sinh) và để lại cho hậu thế chỉ có bài thơ duy nhất, cảm tác về cửa Hàm Tử ấy. Nhưng có lẽ cũng chính nhờ bài thơ duy nhất đó mà tên tuổi ông còn được lưu truyền. Bài thơ như sau:

Thuyết trước sa trường cảm khái đa,
Nhi kim Hàm Tử mạn kinh qua.
Cổ chinh húng dũng triều thanh cấp,
Kỳ bái sâm si trúc ảnh tà.
Vương đạo hồi xuân nồng cổ thụ,
Hồ quân bão hận thấu hàn ba.
Toa Đô thụ thủ tri hà xứ?
Thủy lục sơn thanh nhập vọng xa.

(Cảm khái bao nhiêu cuộc chiến này!
Mà nay Hàm Tử mới qua đây.
Trống chiêng rộn rịp: triều lên gấp,
Cờ xí tưng bừng: tre lả lay.
Vương đạo hồi xuân, cây thắm lại,
Quân Hồ ôm hận, sóng vùi thây.
Toa Đô nộp mạng nơi nào nhỉ?
Nước biếc non xanh mắt chứa đầy!)

Rõ ràng là trên cùng một sự kiện lịch sử mà cảm hứng thơ đã khác xưa. ở đây, nhịp điệu thơ trầm tĩnh hơn, hình tượng thơ tỏa rộng xen lẫn chất trầm tư, tứ thơ trở nên man mác. Quả là lời thơ của người đời sau, tức cảnh mà cảm khái về lịch sử, chứ không còn là người trong cuộc hào hứng xúc động về sự kiện nóng bỏng của thời đại mình.

Và nói chung, những điều nhận xét về Trần Lâu cũng hoàn toàn đúng đối với tất cả những thơ văn cảm tác về Chương Dương, Hàm Tử làm ra sau bài Phò giá trở về kinh: chúng đều là những đóng góp có tính chất bổ sung hay tô đậm thêm vào cái phần sáng tạo căn bản của Trần Quang Khải; song chúng không thể làm lu mờ, càng không thể thay thế bốn câu thơ tinh túy của nhà thơ đời Trần.

Lại cũng có thể ngờ rằng mấy câu:
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là bắt mạch xa gần từ trong hình tượng thơ của bài Phò giá trở về kinh. Mấy chi tiết lẫn lộn về lịch sử ở đây - Toa Đô không phải bị bắt ở Hàm Tử mà bị giết chết ở trận Tây Kết lần thứ hai; trái lại Ô Mã Nhi không phải bị giết mà bị bắt sống ở Bạch Đằng chẳng làm người đọc bận lòng cho lắm, nhưng cái hình ảnh bắt giặc ở cửa Hàm Tử thì cứ y như thoát thai từ nguồn cảm hứng tươi rói của câu thơ: Hàm Tử bắt quân thù.

Còn như mấy câu lục bát của tác giả Đại Nam quốc sử diễn ca.
Chương Dương một trận phong đào,
Kìa ai cướp giáo ra vào có công.
Hàm Quan một trận ruổi rong,
Kìa ai bắt giặc uy phong còn truyền.

Thì không nghi ngờ gì nữa, đó là dư âm trực tiếp của hai câu thơ đầu trong bài Tụng giá... nổi tiếng của Trần Quang Khải.

Nguyễn Huệ Chi
http://maxreading.com/?chapter=262

Người theo dõi