Lưu trữ Blog

28 tháng 12, 2008

Thu hút nguồn lực cho các trường đại học: Kinh nghiệm từ Trung Quốc



HOCMOINGAY. Trong khoảng từ năm 1978-2005, 770.300 người Trung Quốc đã đi du học và không đầy 1/4 số đó quay trở về. Tuy nhiên, đa số những người về nước sau khi tốt nghiệp đã hồi hương sau năm 2000, chỉ tính riêng trong năm 2005 là 35.000 người. Những người hồi hương thường nhắm tới quyền được giới thiệu các phương pháp giảng dạy mới, hướng dẫn nghiên cứu hoặc giám sát quá trình cải cách chương trình giảng dạy. Họ đã tìm thấy cơ hội của họ vào năm 1998, khi chính phủ trung ương công bố một dự án được lập ra nhằm chuyển hàng triệu USD vào một nhóm nhỏ các trường đại học ưu tú, nhằm giúp chúng nổi lên trên trường quốc tế. Chính phủ Trung Quốc đã cấp cho 9 trường đại học hàng đầu khoản đầu tư tương đương 120 triệu USD mỗi trường với quy định 20% trong tổng số tiền đó được dành để thuê cán bộ từ nước ngoài.Tuy nhiên, đổi mới không phải lúc nào cũng tới một cách dễ dàng. Tại các trường đại học ít danh tiếng hơn bên ngoài Thượng Hải và Bắc Kinh, những học giả hồi hương đối mặt với điều tiếng rằng họ đang quay trở về Trung Quốc vì thất bại ở nước ngoài. Khi ngày càng có nhiều học giả hồi hương, các chính sách tuyển dụng được siết chặt. Hy vọng lớn nhất cho việc giải quyết những khó khăn trên có thể nằm ở việc tiếp tục phát triển giáo dục sau đại học.Trước sức hút của một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh, các học giả tu nghiệp ở nước ngoài vẫn tiếp tục trở về cùng với một bộ phận nhỏ nhưng ngày càng tăng các học giả ngoại quốc thích được làm việc ở đại lục. Thanh Bình - báo Việt Nam Net, đã dịch tài liệu "The Chronicle of Higher Education" về kinh nghiệm của Trung Quốc trong sự thu hút nguồn lực cho các trường đại học (ảnh HTN: Trường Đại học Sư phạm Hoa Trung)

Ngày càng có nhiều nhà học thuật Trung Quốc được đào tạo tại Mỹ trở về nước để giảng dạy và quản lý các chương trình đặc biệt của chính phủ do hàng loạt chính sách chào mời, ưu đãi nhằm lôi kéo của nhà chức trách địa phương. Là một giáo sư tại Trường Wharton thuộc Đại học Pennsylvania trong những năm 1990, Trịnh Vũ Thành từng kết thân với những học giả Trung Quốc khác và mơ ước ngày trở về quê hương.

Trước kia, tại Mỹ từng có rất ít giáo sư Trung Quốc trong lĩnh vực kinh doanh và họ đã lập nên một cộng đồng nhỏ, gắn kết bền chặt và thành công. Tuy nhiên, ông Trịnh và các bạn bè của mình cảm thấy rằng tài năng của họ có thể được phát huy tốt hơn ở nơi nào đó khác.

Ông Trịnh nhớ lại: "Chúng tôi nói với nhau rằng: Tại sao chúng ta không thể xúc tiến một trường kinh doanh ở Trung Quốc?". Trung Quốc đang phát triển rất nhanh chóng. Có rất nhiều thứ cần phải học hỏi và việc đào tạo kinh doanh thì chưa phát triển lắm. Chúng tôi đã tin rằng có thể đóng góp nhiều hơn nữa ở đó".

"Lật ngược tình trạng khô cạn chất xám"

Năm 2002, các học giả đã có được cơ hội của họ khi hai nhà quản lý Trung Quốc tới để chiêu mộ tất cả về nước nhằm quản lý một trường kinh doanh mới. Ông Trịnh đã ở Mỹ kể từ những năm 1980, khi ông rời Trung Quốc để theo đuổi bằng tiến sỹ tại Đại học Columbia. Tuy nhiên, ông đã không phải mất nhiều thời gian để cân nhắc về đề xuất của nhà chức trách Trung Quốc. Quay trở về quê hương Thượng Hải, ông trở thành Phó Hiệu trưởng Trường Quản lý kinh doanh Trường Giang, nơi hiện nay 27 trên tổng số 35 cán bộ của trường là các học giả Trung Quốc từng được đào tạo tại Mỹ.

Trường quản lý kinh doanh là một trong 3 chương trình đầy tham vọng của tỉ phú Hồng Kông Lý Gia Thành nhằm cải thiện giáo dục sau đại học của Trung Quốc, một phần thông qua việc thu hút con số không nhỏ trong hàng ngàn học giả Trung Quốc đã đi du học kể từ khi Trung Quốc bắt đầu mở cửa hồi những năm 1980.

Các trường đại học Trường Giang là một ví dụ tiêu biểu nhất cho dự án tuyển dụng táo bạo, đem lại kết quả mà đôi khi người ta gọi là "sự lật ngược tình trạng khô cạn chất xám" của Trung Quốc. Trong một động thái được coi là thay đổi hẳn so với chính sách ban đầu về việc tu nghiệp ở nước ngoài, các chương trình của chính phủ Trung Quốc cũng như các trường đào tạo riêng lẻ hiện đang đưa ra mức lương và những quyền lợi cạnh tranh dành cho các ứng viên quan tâm tới việc trở về từ ngoại quốc.

Cùng với sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc, các chương trình đang thu hút một số lượng ngày càng lớn số học giả hồi hương. Trong khoảng từ năm 1978-2005, 770.300 người Trung Quốc đã đi du học và không đầy 1/4 số đó quay trở về. Tuy nhiên, đa số những người về nước sau khi tốt nghiệp đã hồi hương sau năm 2000, chỉ tính riêng trong năm 2005 là 35.000 người. Những người hồi hương thường nhắm tới quyền được giới thiệu các phương pháp giảng dạy mới, hướng dẫn nghiên cứu hoặc giám sát quá trình cải cách chương trình giảng dạy.

Đối lập với những suy nghĩ hồi còn ở Mỹ trong năm 1990, ông Trịnh miêu tả sự phấn khích rõ ràng của những người đồng nghiệp của mình ở trường Trường Giang. "Ở Mỹ, bạn chỉ là một trong số hàng ngàn người tới đó mà không mong muốn. Ở Trung Quốc, mỗi người trong chúng tôi đều chọn ở lại đây". Dòng người hồi hương đổ về Trung Quốc hiện đáng chú ý đến mức hiện tượng đó đã gây ra một phản ứng dữ dội. Xung đột văn hoá, sự oán giận của người dân địa phương và thậm chí đấu đá ngấm ngầm trong nội bộ những người trở về rất phổ biến. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng các vấn đề này chỉ đang làm nảy sinh những ung nhọt sẽ biến mất theo thời gian nếu môi trường học thuật ở Trung Quốc tiếp tục được cải thiện.

Phụng sự tổ quốc

Trước đây, Chính phủ Trung Quốc không phải lúc nào cũng nhìn nhận các trường đại học ngoại quốc là lò đào tạo tài năng. Vào những năm 1980, khi các học sinh xuất sắc nhất Trung Quốc ào ạt sang Mỹ du học, các quan chức tại Uỷ ban giáo dục quốc gia, hiện là Bộ Giáo dục, đã vô cùng lo lắng. Năm 1988, nhà chức trách ủng hộ việc áp dụng các biện pháp kiểm soát hộ chiếu, đòi hỏi nhiều du học sinh Trung Quốc phải quay trở về nước để hoàn thành việc học tập của mình, khiến họ không thể có thêm những kinh nghiệm hữu ích và quan hệ ở ngoại quốc.

Tuy nhiên, khi tài năng tiếp tục bị rò rỉ ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc trong một thập niên tiếp theo, chính quyền trung ương đã thay đổi cách nhìn. Các quan chức tung ra hàng loạt khẩu hiệu chào đón, kêu gọi các du học sinh "phụng sự tổ quốc" từ nước ngoài. Để loại bỏ sự hoài nghi về quê hương, văn phòng đối ngoại thuộc Uỷ ban giáo dục quốc gia đã tài trợ cho các chuyến đi thuyết trình và nghiên cứu ngắn hạn của du học sinh về Trung Quốc. Người ta hy vọng rằng các học giả sẽ dần dần tăng cường mối quan hệ với Trung Quốc, hồi hương khi có những cơ hội phù hợp để thể hiện bản thân.

Những học giả nhớ quê hương đã tìm thấy cơ hội của họ vào năm 1998, khi chính phủ trung ương công bố một dự án được lập ra nhằm chuyển hàng triệu USD vào một nhóm nhỏ các trường đại học ưu tú, nhằm giúp chúng nổi lên trên trường quốc tế. Chính phủ Trung Quốc đã cấp cho 9 trường đại học hàng đầu khoản đầu tư tương đương 120 triệu USD mỗi trường với quy định 20% trong tổng số tiền đó được dành để thuê cán bộ từ nước ngoài.

Các nhà tài trợ tư nhân cũng tham gia đóng góp. Ngoài việc cung cấp tài chính cho các trường đại học Trường Giang, quỹ do tỉ phú Lý sáng lập còn tài trợ cho Chương trình các nhà nghiên cứu Trường Giang - chương trình cung cấp các khoản tiền thưởng hàng năm lên tới 100.000 NDT (15.000 USD) cho việc tuyển dụng các giáo sư đại học công lập từ ngoại quốc. Kể từ năm 1998, hơn 800 giáo sư Trung Quốc tu nghiệp ở nước ngoài, mà phần lớn trong số họ là người hồi hương, đã đảm nhận các cương vị trong nước thông qua chương trình này.

Theo David Zweig - giám đốc Trung tâm chuyên trách các quan hệ vượt phạm vi lãnh thổ Trung Quốc thuộc Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông kiêm tác giả nhiều bài viết về vấn đề "đảo ngược sự khô cạn chất xám", bản thân các trường đại học hiện nay cũng đã đứng ra điều hành những chiến dịch tuyển dụng của riêng họ. Ông Zweig cho biết, để cải thiện thứ hạng trong các bảng đánh giá quốc tế, các trường đại học "muốn có đội ngũ nhân viên có thể đăng tải bài trên các tạp chí phương Tây". Điều này sẽ dễ dàng hơn đối với các nhà nghiên cứu thành thạo tiếng Anh.

C.S. Khang, Hiệu trưởng Trường Khoa học môi trường thuộc Đại học Bắc Kinh, là một trong số các học giả từng được tuyển dụng theo cách như trên. Ông Khang sinh ra ở Đài Loan. Vào năm 2001, lúc đang chuẩn bị nghỉ hưu ở Viện Công nghệ Georgia - nơi ông đã giảng dạy và quản lý chương trình các ngành khoa học về khí quyển, vị giáo sư này đã bay về Bắc Kinh để hỗ trợ thành phố làm sạch không khí chuẩn bị cho Thế vận hội 2008.

Sát cánh cùng các nhà quản lý Đại học Bắc Kinh, ông Khang cuối cùng đã được chỉ định vào uỷ ban điều hành các nỗ lực của trường, nhằm sát nhập 3 khoa thành một trường trực thuộc. Thiếu cái mà ông gọi là "hành trang cá nhân" của những bộ óc được đào tạo trong nước, ông Kiang đã đoàn kết một trường đang chia rẽ quanh dự án. Ông Khang kể, Tô Trí Hồng - Chủ tịch trường Đại học Bắc Kinh khi đó, đã nói rằng: "Ông chính là người đã làm được chuyện đó. Tại sao ông không làm hiệu trưởng cơ chứ?".

Khi được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo một năm sau đó, ông Khang đã được trao quyền định hình tầm nhìn của trường mới. Ông đã giới thiệu chương trình mà ông gọi bằng tiếng Anh là "4 I": quốc tế hoá, phối kết hợp các phương pháp và tri thức khoa học, hội nhập và đổi mới. Ngay cả tên trường cũng là ý tưởng của ông, ông Khang cho biết.

Đã có một việc rắc rối là lương của ông Khang cao hơn 10-20 lần số tiền mà trường địa phương từng chi trả. Theo lời ông Khang, bản thân ông đã tìm cách từ chối ưu đãi đó nhưng các nhà quản lý đại học vốn đang háo hức được quảng bá sự hào phóng của họ tới những ứng viên hồi hương tiềm tàng khác đã nhất quyết việc này. Ông Khang cuối cùng đã ủng hộ một phần của số tiền đó cho một quỹ môi trường.

Chiến lược đã có hiệu quả. Ông Khang là vị hiệu trưởng đầu tiên của một trường trực thuộc Đại học Bắc Kinh từng tu nghiệp ở nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay tại Đại học Peking còn có những học giả khác như ông Khang, gồm có Trần Thế Di - Hiệu trưởng Học viện cơ khí, người từng giảng dạy ở Đại học Johns Hopkins và Di Nhượng - Hiệu trưởng Trường Khoa học cuộc sống, người từng được tuyển mộ từ Đại học Northwestern.

Đại học Thanh Hoa đối thủ cũng lôi kéo được các học giả hồi hương xuất sắc, ví dụ như nhà kinh tế Nghiêm Anh Di từ Đại học California ở Berkeley, hiện là Hiệu trưởng Trường Kinh tế và quản lý trực thuộc và Thạch Nghĩa Công - Phó Giám đốc Viện Dược sinh hoá, người trở về từ Đại học Princeton.

Trong khi đó, ông Khang đã sử dụng vị trí của mình để tạo ra một nghề nghiệp lên như diều gặp gió, bao gồm việc xuất hiện thường xuyên tại các Diễn đàn kinh tế thế giới, các cuộc gặp của CLB Rome cùng với một vị trí cố vấn trong tổ chức những bô lão toàn cầu của ông Nelson Mandela - nhóm quy tụ cựu Tổng thống Mỹ Jimmy Carter, người từng được giải Nobel hoà bình Desmond Tutu đến từ Nam Phi và doanh nhân người Anh Richard Branson. Ông Khang nhấn mạnh: "Tôi đã có rất nhiều hoạt động quảng bá khắp toàn cầu, điều mà tôi chưa từng làm hồi còn ở Viện Công nghệ Georgia. Mọi người tới Bắc Kinh. Họ không ghé qua Atlanta".

Những trở ngại cho sự đổi mới

Tuy nhiên, đổi mới không phải lúc nào cũng tới một cách dễ dàng. Tại các trường đại học ít danh tiếng hơn bên ngoài Thượng Hải và Bắc Kinh, những học giả hồi hương đối mặt với điều tiếng rằng họ đang quay trở về Trung Quốc vì thất bại ở nước ngoài.

Năm 2003, ông Zweig phỏng vấn một số học giả đang làm việc tại Đại học Vân Nam ở thành phố tây nam Kôn Minh, cả được đào tạo trong nước và từng tu nghiệp ở nước ngoài. "Chúng tôi nhận thấy vô số sự khinh miệt của người địa phương dành cho những người hồi hương, rất nhiều sự chế nhạo họ", ông nói.

Xung đột có thể trở nên trầm trọng khi số lượng và chất lượng của những người trở về tăng cao. Năm 2003, các nhà quản lý tại Đại học Bắc Kinh, bản thân cũng là các học giả hồi hương, đã ủng hộ các cải cách tuyển dụng, vốn tạo lợi thế cho những ứng viên có kinh nghiệm làm việc ở ngoại quốc, có học hàm giáo sư bắt buộc,... để dạy bằng ngôn ngữ thứ hai.

Theo Stanley Rosen - giám đốc Trung tâm nghiên cứu Đông Á thuộc Đại học Nam California, người đang theo dõi sát sao quá trình đổi mới ở Trung Quốc, những cải cách như vậy đã vấp phải sự phản đối kịch liệt trong đội ngũ giảng dạy được đào tạo tại địa phương đến mức Trường Đại học Peking phải huỷ bỏ một phần kế hoạch trên.

Cao Công, một nghiên cứu sinh tại Viện Levin thuộc Đại học bang New York và là tác giả một cuốn sách về tầng lớp khoa học ưu tú của Trung Quốc, cho biết thêm rằng thậm chí còn tồn tại việc đấu đá trong nội bộ của những người trở về. Khi ngày càng có nhiều học giả hồi hương, các chính sách tuyển dụng được siết chặt. Những người trở về sớm, đã giành được các vị trí quyền lực nhờ các chiến dịch tuyển dụng khoan dung, có thể khiến mọi thứ khó khăn hơn cho những lần hồi hương về sau của những người xứng đáng hơn. "Chính phủ tuyên bố họ thực sự muốn mọi người quay trở về, nhưng ở cấp độ đơn vị hoạt động hoặc cấp trường đại học, đó thực sự là một việc phức tạp", ông Cao nói.

Các học giả hồi hương cũng bị chỉ trích vì cống hiến quá ít. Các sinh viên cho hay, họ đánh giá cao thành tích tại ngoại quốc của những học giả trở về nhưng nhiều người trong số này đã dồn mọi tâm sức cho việc nghiên cứu và dành rất ít thời gian cho việc giảng dạy tại lớp.

Nghiệp Tân, một ứng viên tiến sỹ tại Khoa Cơ khí của Đại học Chiết Giang, Hàng Châu cho hay các học giả hồi hương duy nhất tại trường này là các giáo sư bán thời gian, những người vẫn giữ cương vị ở nước ngoài. "Họ giúp trường đánh bóng tên tuổi và có thể về nước, giảng bài một hay hai lần mỗi năm. Chúng tôi hiếm khi được gặp họ".

Kết thúc cơn sốt trở về?

Hy vọng lớn nhất cho việc giải quyết những khó khăn trên có thể nằm ở việc tiếp tục phát triển giáo dục sau đại học của Trung Quốc. Một số học giả cho rằng khi các trường đại học của Trung Quốc trở nên cạnh tranh hơn, đào tạo ra các cử nhân xuất sắc hơn thì việc chú trọng vào kinh nghiệm của nước ngoài sẽ giảm đi.

Trần Trí Mẫn, một giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại học Phúc Đán ở Thượng Hải, nói rằng trong khi các trường đại học hạng hai có thể vẫn duy trì các biện pháp tuyển dụng bất công bằng thì trường của ông đang tiến tới sự hợp lý.

Ông Trần, người đã theo đuổi một mô hình truyền thống hơn của một tiến sỹ người Trung Quốc từng giành được học bổng 18 tháng tại Đại học danh tiếng Havard, khẳng định: "Trước đây, chúng tôi từng có các chính sách vô cùng đặc biệt dành cho các học giả hồi hương. Ngưỡng tuyển dụng hiện đã được nâng lên cao hơn. Nếu bạn không hoạt động tốt ở ngoại quốc thì bạn sẽ không có được đối xử ưu đãi".

Theo ông Trần, càng ngày những người hồi hương muốn có được một vị trí trong đội ngũ nhân viên của trường Fudan phải cạnh tranh với số lượng lớn các đối thủ được đào tạo trong nước. Tuy nhiên, trước sức hút của một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh, các học giả tu nghiệp ở nước ngoài vẫn tiếp tục trở về cùng với một bộ phận nhỏ nhưng ngày càng tăng các học giả ngoại quốc thích được làm việc ở đại lục.

"Chúng tôi vừa mới thuê một nhà nghiên cứu người Ireland để tới làm giảng viên, như phần còn lại trong chúng tôi. Chúng tôi coi đây là một xu hướng mới", ông Trần nói.

Thanh Bình -Báo Việt Nam Net Theo The Chronicle of Higher Education)

19 tháng 12, 2008

Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009 - 2020

HỌC MỖI NGÀY. Theo nguồn tin Viet Nam Net, chiều ngày 18. 12. 2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009 - 2020 tại cuộc gặp với lãnh đạo một số cơ quan báo chí. Dưới đây là nội dung của bản dự thảo

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM 2009 - 2020

Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Điều này đòi hỏi giáo dục phải có chiến lược phát triển đúng hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng tầm thời đại. Chiến lược Giáo dục Việt Nam 2001-2010 đã tiến hành được 8 năm. Thực tiễn phát triển giáo dục đất nước đã khẳng định những định hướng đúng đắn của chiến lược nhưng đồng thời cũng cho thấy cần có sự điều chỉnh. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2009-2020 tiếp tục thực hiện giai đoạn cuối của Chiến lược giáo dục 2001-2010 với những điều chỉnh cần thiết, tạo những bước chuyển căn bản của giáo dục trong thập niên tới.

I. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21

1. Những thành tựu

a. Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội

Năm học 2007-2008, cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên, tăng 2,86% so với năm học 2000-2001; trong đó số học sinh học nghề tăng 2,14 lần; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,41 lần; số sinh viên cao đẳng, đại học tăng 1,75 lần, nâng tỷ lệ sinh viên cao đẳng, đại học trên một vạn dân tăng 1,6 lần, số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng 2,5 lần.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo theo các trình độ khác nhau tăng từ 20% vào năm 2000 lên 31,5% vào năm 2007.

Mạng lưới trường lớp được phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Về cơ bản đã xóa được "xã trắng" về giáo dục mầm non; trường tiểu học đã có ở tất cả các xã, trường trung học cơ sở có ở xã hoặc cụm liên xã, trường trung học phổ thông có ở tất cả các huyện. Các cơ sở đào tạo nghề, cao đẳng và đại học được thành lập ở hầu hết các địa bàn dân cư lớn, các vùng, các địa phương, đặc biệt ở vùng chậm phát triển như Tây Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi đã có trường nội trú và bán trú cho con em các dân tộc thiểu số.

Hiện nay, cả nước có trên 9.000 trung tâm học tập cộng đồng, gần 700 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và huyện, 1.300 trung tâm tin học, nhiều trường đại học triển khai các chương trình đào tạo từ xa. Ngoài ra, có nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ có yếu tố nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Một xã hội học tập đã hình thành rõ nét ở Việt Nam.

b. Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có chuyển biến. Nội dung dạy học và kiến thức của học sinh phổ thông đã có tiến bộ, toàn diện hơn. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được nâng cao. Số đông sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng có hoài bão lập thân, lập nghiệp và có tinh thần tự lập và đại bộ phận đã có việc làm. Chất lượng đào tạo của một số ngành đào tạo khoa học và công nghệ đã được nâng cao một bước.

Trong những năm gần đây, công tác quản lý chất lượng đã đặc biệt được chú trọng. Đã hình thành các tổ chức chuyên trách về đánh giá và kiểm định chất lượng. Ngoài Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng cấp trung ương được thành lập vào tháng 8/2008, phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng đã được thành lập tại 55 trong số 63 Sở Giáo dục và Đào tạo, 55 đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng được thành lập ở các trường đại học và cao đẳng. Tới tháng 7/2008, đã có 114 trường đại học tự đánh giá, trong đó có 40 trường được đánh giá ngoài.

Các trường phổ thông chất lượng cao được hình thành ở nhiều địa phương. Nhiều trường đại học đã tổ chức dạy học theo các chương trình tiên tiến quốc tế. Tới tháng 7/2008 có 24 chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế đang được sử dụng ở 17 trường đại học giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh. Đã tăng cường sự gắn kết giữa hoạt động khoa học công nghệ với hoạt động đào tạo sau đại học, tập trung vào các lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, khoa học nông-lâm-ngư và khoa học giáo dục. Để đáp ứng tốt hơn yêu cầu cung cấp nhân lực cho các lĩnh vực kinh tế-xã hội, nâng cao hiệu quả đào tạo, trong 2 năm gần đây ngành giáo dục đào tạo đã tích cực đẩy mạnh việc thực hiện đào tạo gắn với nhu cầu xã hội.

Đồng thời với sự đổi mới chương trình, sách giáo khoa và tài liệu dạy học theo Nghị quyết 40/2000/QH của Quốc hội, phương pháp giáo dục ở các nhà trường đã bước đầu được đổi mới theo tinh thần phát huy tính năng động, chủ động và tích cực của người học, đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy và học. Chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên ở các cấp học và trình độ đào tạo đã và đang được xây dựng làm cơ sở cho việc đánh giá và bồi dưỡng giáo viên theo chuẩn.

c.Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã được công nhận chuẩn quốc gia về xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Đến 12/2007 Đến 7/2008, đã có 42/63 tỉnh, thành phố (67%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; 42/63 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ của cả nước là 94%; số năm học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên là 9,6. Sự khác biệt về trình độ học vấn giữa nam và nữ ngày càng được thu hẹp. Về cơ bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục cơ bản.

d. Công tác xã hội hoá giáo dục và việc huy động nguồn lực cho giáo dục đã đạt được những kết quả bước đầu. Các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc huy động trẻ đến trường, giám sát, đánh giá và hiến kế cho giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất trường học, đầu tư mở trường, đóng góp kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng liên tục từ 15,5% năm 2001 lên 20% năm 2007. Trong năm 2007, khoảng 25% tổng chi phí của xã hội cho học tập là đóng góp của người dân. Bên cạnh đó, cũng đã huy động được sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội và đầu tư nước ngoài.

Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm học 2007-2008, cả nước có gần 6.000 cơ sở giáo dục mầm non, 95 trường tiểu học, 33 trường trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ thông, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường trung cấp chuyên nghiệp và 64 trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng tăng. Năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công lập là 15,6%, trong đó tỷ lệ học sinh phổ thông là 9%; học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%; học nghề là 31,2%; sinh viên cao đẳng, đại học là 11,8%.

e. Công bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt tăng cơ hội học tập cho trẻ em gái, trẻ em người dân tộc, con em các gia đình nghèo và trẻ em khuyết tật. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước hết ở các cấp học phổ cập. Từ năm học 2007-2008, học sinh học nghề, sinh viên cao đẳng, đại học có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn với số lượng lớn để học; 53% số học sinh sinh viên cả nước được miễn giảm học phí.

Từ năm học 2007 – 2008, học sinh học nghề, sinh viên cao đẳng, đại học có hoàn cảnh khó khăn được vay để chi trả cho việc học hành (752.000 người được vay với mức tối đa 800.000 đồng/tháng).

Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có tiến bộ rõ rệt. Đến năm học 2007-2008 có 278 trường dân tộc nội trú của trung ương, tỉnh, huyện và cụm xã, với khoảng 86.000 học sinh; các trường, lớp hoà nhập và chuyên biệt đã thu hút hơn 250.000 trẻ khuyết tật đi học.

g. Công tác quản lý giáo dục đã có nhiều chuyển biến. Công tác quản lý chất lượng đã được chú trọng với việc tăng cường hệ thống đánh giá và kiểm định chất lượng. Năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hoàn thành việc xây dựng đề án đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục đào tạo, trong đó có đề án học phí. Việc phân cấp quản lý giáo dục cho các địa phương và sở giáo dục được đẩy mạnh, đặc biệt tăng quyền chủ động cho các cơ sở giáo dục trong tuyển dụng giáo viên, sử dụng ngân sách, tổ chức quy trình giáo dục, tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học, thực hiện chương trình, sách giáo khoa phù hợp với đặc điểm đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể của từng vùng miền. Cải cách hành chính trong toàn ngành giáo dục được đẩy mạnh. Cơ chế “một cửa” được triển khai thí điểm tại cơ quan Bộ và 63/63 văn phòng của các Sở giáo dục. Công nghệ thông tin được ứng dụng mạnh mẽ trong quản lý ngành.

Những thành tựu của giáo dục nước ta đã khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta theo bảng xếp loại của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc trong những năm gần đây có những tiến bộ đáng kể: từ 0,688, xếp thứ 109 trong số 174 quốc gia vào năm 2000 đã tăng lên 0,733, xếp thứ 105 trong số 177 quốc gia vào năm 2005. Những thành tựu của giáo dục đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước trong hơn 20 năm đổi mới.

Nguyên nhân của những thành tựu

a. Sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp, sự quan tâm, tham gia đóng góp của các tổ chức kinh tế-xã hội và toàn dân đối với giáo dục đã góp phần quyết định cho sự thành công của sự nghiệp giáo dục.

b. Sự ổn định chính trị, những thành quả phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân của thời kỳ đổi mới đã tạo môi trường với các điều kiện thuận lợi cho phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân sách nhà nước đã liên tục tăng qua các năm.

c. Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo và quyết tâm đổi mới của ngành giáo dục đào tạo đã góp phần quan trọng thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Các giáo viên và cản bộ quản lý công tác ở mọi miền tổ quốc, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách to lớn, đóng góp công sức vào sự nghiệp trồng người.

d. Truyền thống hiếu học của dân tộc được phát huy mạnh mẽ, thể hiện trong từng gia đình, từng dòng họ, từng cộng đồng dân cư. Nhân dân đã không tiếc công sức, tiền của đầu tư và khuyến khích động viên con em vượt khó, chăm chỉ học tập, hỗ trợ và tạo điều kiện dạy tốt, học tốt cho các nhà trường.

2. Những yếu kém

Mặc dù đã đạt được một số thành tựu cơ bản nhưng giáo dục nước ta vẫn còn những bất cập và yếu kém:

a. Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, thiếu tính liên thông giữa các cấp học và các trình độ đào tạo, trong đó giáo dục nghề nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Cách thức tổ chức phân luồng trong hệ thống giáo dục còn thể hiện nhiều lúng túng. Tình trạng mất cân đối giữa cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề đào tạo chậm được khắc phục, chưa đáp ứng được yêu cầu nhân lực của xã hội.

b. Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Sự phát triển quy mô giáo dục ở các cấp học, ngành nghề và trình độ đào tạo trong những năm qua đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, nhưng chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và còn thấp so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Trong giáo dục chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số lượng với nâng cao chất lượng. Trong nhiều năm gần đây, quy mô giáo dục đại học phát triển, số lượng các trường cao đẳng, đại học tăng mạnh trong khi các điều kiện về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất - kỹ thuật nhà trường chưa phát triển đủ để đảm bảo được chất lượng đào tạo của các cơ sở này.

c. Nội dung, phương pháp giáo dục từ mầm non đến phổ thông đã được đổi mới nhưng còn bộc lộ nhiều hạn chế; chương trình giáo dục đại học chậm đổi mới, chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục. Còn có những nội dung trong chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo không thiết thực, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa gắn với yêu cầu xã hội, chưa phù hợp với nhu cầu và khả năng học tập của mọi đối tượng học sinh. Phương pháp dạy học về cơ bản vẫn theo lối truyền thụ một chiều, đòi hỏi người học phải ghi nhớ máy móc, không phát huy được tư duy phê phán, tư duy sáng tạo và tinh thần tự học ở người học.

d. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ giáo dục trong thời kỳ mới. Còn thiếu quy hoạch tổng thể đào tạo đội ngũ nhà giáo từ mầm non đến đại học dẫn đến tình trạng đội ngũ nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu, vừa không đồng bộ về cơ cấu. Ở các trường cao đẳng, đại học, số giảng viên có trình độ thạc sỹ và tiến sỹ còn quá ít. Phương thức đào tạo trong các nhà trường sư phạm chậm đổi mới, chất lượng đào tạo còn thấp dẫn đến tình trạng trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của một bộ phận nhà giáo chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng. Bên cạnh sự nỗ lực của tuyệt đại bộ phận, một số nhà giáo còn có biểu hiện vi phạm đạo đức lối sống, làm ảnh hưởng xấu tới uy tín của người thầy trong xã hội. Công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ nhà giáo còn thiếu hiệu quả. Các chế độ chính sách đối với nhà giáo chưa thỏa đáng, chưa tạo được động lực phấn đấu vươn lên trong bản thân mỗi người thầy.

e. Cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Mặc dù tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường trong những năm gần đây đã có nhiều cải thiện rõ rệt nhưng tính đến năm 2007 vẫn còn 11% số lớp học ở tình trạng lớp học tạm, phòng học cấp 4 cũ nát, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở các trường đại học.

Nguyên nhân của những yếu kém

a. Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu chưa thực sự được quán triệt đúng mức ở các cấp quản lý và chỉ đạo giáo dục

Trong nhiều năm qua Đảng ta đã luôn luôn nhấn mạnh quan điểm “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực của quá trình phát triển”. Tuy nhiên trong thực tiễn, quan điểm này chưa được cụ thể hóa để hiểu một cách đầy đủ và triển khai một cách thực sự hiệu quả ở mọi lĩnh vực. Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của giáo dục, chưa thấy hết trách nhiệm đối với giáo dục nên chưa dành ưu tiên thỏa đáng tạo điều kiện phát triển giáo dục. Một số địa phương còn sử dụng ngân sách giáo dục vào những hoạt động không phục vụ mục đích giáo dục.

b. Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế.

Trong khi tình hình kinh tế xã hội trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc và trên thế giới đang diễn ra nhiều xu thế đổi mới giáo dục mạnh mẽ thì nhiều tư tưởng chỉ đạo giáo dục ở nước ta vẫn còn xơ cứng, trì trệ. Chưa nhận thức đúng mức sự cần thiết phải tập trung quản lý nhà nước đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Nhận thức về những tác động của nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ nên chưa tạo được sự phù hợp của cơ chế quản lý giáo dục với cơ chế thị trường. Tư tưởng trọng bằng cấp dẫn đến những thành tích giả tạo trong giáo dục. Ở đại học, các nhà trường thường chỉ dạy những cái mình có mà chưa quan tâm đến nhu cầu của xã hội. Ở phổ thông, quan niệm đề cao kiến thức, coi nhẹ năng lực hoạt động của học sinh đã dẫn đến tình trạng còn tổ chức nhiều môn học trong chương trình giáo dục, phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, chưa tạo được niềm vui học tập cho người học.

c. Công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập

Quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo còn nặng tính quan liêu bao cấp, vẫn còn tình trạng ôm đồm, sự vụ, làm hạn chế quyền chủ động, sáng tạo và ý thức trách nhiệm của các đơn vị cơ sở. Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh. Việc chia cắt các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bộ ngành khác đã làm cho việc quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục chồng chéo, phân tán, thiếu thống nhất. Việc tách rời quản lý nhà nước về chuyên môn với quản lý nhân sự, tài chính đã làm giảm tính thống nhất trong chỉ đạo, điều hành đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân và làm cho bộ máy quản lý giáo dục trở nên cồng kềnh, nặng nề. Năng lực của các cơ quan quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ quản lý trong tình hình mới.

Chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa hợp lý, chưa quan tâm đúng mức đến các địa phương khó khăn. Đầu tư của nhà nước cho giáo dục còn thiếu hiệu quả, chưa tập trung cao cho những mục tiêu ưu tiên. Cơ cấu chi ngân sách giáo dục chưa hợp lý, trong đó phần chi cho hoạt động chuyên môn là không đáng kể.

d. Những tác động khách quan làm tăng thêm những yếu kém bất cập của giáo dục

Quá trình hội nhập quốc tế đã mang tới những cơ hội lớn nhưng cũng mang đến nhiều thách thức lớn đối với giáo dục. Trong xã hội, chủ nghĩa hình thức, hám danh vọng còn nặng nề; tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối mạnh việc dạy, học và thi cử. Mặt trái của kinh tế thị trường đã có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến giáo dục. Nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao trong khi khả năng đáp ứng của ngành giáo dục và trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn hạn chế. Sức đón nhận của thị trường lao động còn hạn hẹp, chưa đáp ứng nhu cầu việc làm của người lao động đã qua đào tạo.


II. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TRONG NHỮNG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ 21

1. Bối cảnh quốc tế

a. Cuộc cách mạng Khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế tri thức. Thế giới đang hướng tới cuộc cách mạng công nghiệp, lấy tri thức làm động lực phát triển. Trình độ đổi mới và ứng dụng tri thức quyết định trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Khoa học - công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã làm thay đổi mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo dục trong các nhà trường, đồng thời đòi hỏi giáo dục phải cung cấp được nguồn nhân lực có trình độ cao.

b. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ quyền lợi quốc gia. Cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên quyết liệt, đòi hỏi các nước phải đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động, đặt ra vị trí mới của giáo dục. Các nước đều xem phát triển giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dành cho giáo dục những đầu tư ưu tiên, đẩy mạnh cải cách giáo dục nhằm giành ưu thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Quá trình toàn cầu hóa cũng chứa đựng nguy cơ chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển khi mà các nhân lực ưu tú có nhiều khả năng bị thu hút sang các nước giàu có. Giáo dục trong thế kỷ XXI phải thực hiện được sứ mệnh nhân văn hóa tiến trình toàn cầu hóa, biến toàn cầu hóa thành điều có ý nghĩa đối với từng con người với tất cả các quốc gia. Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng của mỗi đất nước và tạo cơ hội học tập cho mỗi người dân. Giáo dục suốt đời trở thành đòi hỏi và cam kết của mỗi quốc gia. Hệ thống giáo dục, chương trình và phương pháp giáo dục của các quốc gia tiếp tục được thay đổi nhằm xóa bỏ mọi ngăn cách trong các nhà trường, cung cấp các tri thức hiện đại, đáp ứng được yêu cầu mới phát sinh của nền kinh tế.

Thời đại cũng đang chứng kiến vị thế nổi bật của giáo dục đại học. Hầu hết các trường đại học trên thế giới đang tiến hành những cải cách toàn diện để trở thành những trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất, chuyển giao công nghệ và xuất khẩu tri thức.

c. Công nghệ thông tin và truyền thông được ứng dụng trên quy mô rộng lớn ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong giáo dục. Với việc kết nối mạng, các công nghệ, tri thức không chỉ tồn tại ở các địa điểm xa xôi, cách trở và khó tiếp cận hoặc chỉ giới hạn với một số ít người. Giáo dục từ xa đã trở thành một thế mạnh của thời đại, tạo nên một nền giáo dục mở, phi khoảng cách, thích ứng với nhu cầu của từng người học. Đây là hình thức giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi và cho mọi người, trở thành giải pháp hiệu quả nhất để đáp ứng các yêu cầu ngày càng tăng về giáo dục. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, công nghệ tin học tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hoá, nhưng cũng tạo điều kiện cho sự du nhập những giá trị xa lạ ở mỗi quốc gia. Đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc, ngăn chặn những yếu tố ảnh hưởng đến an ninh của mỗi nước.

2. Bối cảnh trong nước

a. Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước đang bước vào thời kỳ phát triển mạnh với vị thế và diện mạo mới. Kinh tế Việt Nam liên tục phát triển; an ninh, quốc phòng được giữ vững. Thu nhập bình quân theo đầu người trong 10 năm qua tăng liên tục từ 337 USD năm 1997 đã lên đến 823 USD năm 2007. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng cường công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP ngày càng giảm; tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, còn khoảng 14%. Việt Nam đang tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế với nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao, với môi trường chính trị ổn định và mức sống của các tầng lớp nhân dân ngày càng được cải thiện. Việc chủ động tích cực hội nhập quốc tế, và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tạo thêm nhiều thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

b. Mặc dù có những bước tăng trưởng đáng kể, nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế có mức thu nhập thấp. Các chỉ số về kết cấu hạ tầng, phát triển con người vẫn ở thứ hạng dưới so với nhiều nước trên thế giới. Năng suất lao động còn thấp, sản xuất chủ yếu vẫn dựa trên những công nghệ lạc hậu, sản phẩm ở dạng thô, chi phí cao, giá trị gia tăng thấp. Cơ cấu kinh tế có chuyển dịch nhưng còn chậm: tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp trong GDP còn thấp, tỷ trọng nông nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức khá cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Hoạt động kinh tế đối ngoại còn hạn chế, thiếu lộ trình chủ động hội nhập quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, chưa đồng bộ. Hiệu lực quản lý nhà nước đối với nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội còn thấp.

3. Cơ hội và thách thức

Các cơ hội

a. Quá trình hội nhập với các trào lưu đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội thuận lợi cho nước ta có thể nhanh chóng tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tận dụng các kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển làm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các nước khác. Hợp tác quốc tế được mở rộng tạo điều kiện tăng đầu tư của các nước, các tổ chức quốc tế và các doanh nghiệp nước ngoài, tăng nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo, tạo thời cơ để phát triển giáo dục.

b. Sau hơn 20 năm đổi mới, những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế xã hội, sự ổn định chính trị làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Sự đóng góp về nguồn lực của nhà nước và nhân dân cho phát triển giáo dục ngày càng được tăng cường.

c. Những người Việt Nam ở nước ngoài với nhiều tiềm năng đang hướng về tổ quốc và dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.

Các thách thức

a. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ trên thế giới có thể làm cho khoảng cách kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các nước ngày càng lớn hơn, nước ta có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn. Hội nhập quốc tế không chỉ tạo cho giáo dục cơ hội phát triển mà còn chứa đựng nhiều hiểm họa, đặc biệt là nguy cơ xâm nhập của những giá trị văn hóa và lối sống xa lạ làm xói mòn bản sắc dân tộc. Khả năng xuất khẩu giáo dục kém chất lượng từ một số nước có thể gây nhiều rủi ro lớn đối với giáo dục Việt Nam, khi mà năng lực quản lý của ta đối với giáo dục xuyên quốc gia còn yếu, thiếu nhiều chính sách và giải pháp thích hợp để định hướng và giám sát chặt chẽ các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài.

b. Ở trong nước, sự phân hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền ngày càng rõ rệt. Điều này có thể làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục giữa các vùng miền và giữa các đối tượng người học.

c. Yêu cầu phát triển kinh tế trong thập niên tới không chỉ đòi hỏi số lượng mà còn đòi hỏi chất lượng cao của nguồn nhân lực. Để tiếp tục tăng trưởng vượt qua ngưỡng các nước có thu nhập thấp, Việt Nam phải cấu trúc lại nền kinh tế, phát triển các loại sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao. Quá trình này đòi hỏi đất nước phải có đủ nhân lực có trình độ. Mặc dù 62,7% dân số nước ta trong độ tuổi lao động, nhưng trình độ của lực lượng lao động này còn thấp so với nhiều nước trong khu vực, cả về kiến thức lẫn kỹ năng nghề nghiệp. Đất nước còn thiếu nhân lực trình độ cao ở nhiều lĩnh vực. Cơ cấu đội ngũ lao động qua đào tạo chưa hợp lý. Nhu cầu nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng với cơ cấu hợp lý tạo nên sức ép rất lớn đối với giáo dục.

III. CÁC QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC

Phát triển sự nghiệp giáo dục cần dựa trên một hệ thống triết lý. Đó chính là một hệ thống quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cần được vận dụng một cách sáng tạo phù hợp thực tiễn giai đoạn mới. Đó là:

1. Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời tạo lập nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Giáo dục và đào tạo phải góp phần tạo nên một thế hệ người lao động có tri thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có tư duy phê phán, sáng tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng nghề nghiệp để làm việc hiệu quả trong môi trường toàn cầu hóa vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Điều này đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản về giáo dục từ nội dung, phương pháp dạy học đến việc xây dựng những môi trường giáo dục lành mạnh và thuận lợi, giúp người học có thể chủ động, tích cực, kiến tạo kiến thức, phát triển kỹ năng và vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. Bên cạnh đó, giáo dục không chỉ nhằm mục đích tạo nên những “cỗ máy lao động”. Thông qua các hoạt động giáo dục, các giá trị văn hóa tốt đẹp cần được phát triển ở người học, giúp người học hoàn thiện tố chất cá nhân, phát triển hài hòa các mặt trí, đức, thể, mỹ. Nội dung, phương pháp và môi trường giáo dục phải góp phần duy trì, bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam.

2. Phát triển nền giáo dục của dân, do dân và vì dân là quốc sách hàng đầu

Giáo dục phải chăm lo nhiều hơn đến việc học của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện cho mọi người, đặc biệt là con em các đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh ở các vùng kinh tế chậm phát triển, học sinh khuyết tật, học sinh có hoàn cảnh khó khăn được tiếp cận với giáo dục có chất lượng. Về phần mình, người dân cần có ý thức và cần được tạo điều kiện tham gia vào quá trình giáo dục, từ việc chia sẻ đóng góp cho giáo dục phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình đến việc trực tiếp tham gia vào các quá trình giám sát, đánh giá, góp ý và hiến kế cho các hoạt động giáo dục. Các thành phần xã hội đều có trách nhiệm tham gia tích cực vào công tác giáo dục để quá trình giáo dục trở thành một quá trình xã hội hóa sâu sắc. Với quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, Đảng và Nhà nước tiếp tục dành sự ưu tiên cho giáo dục, không chỉ thể hiện ở những chính sách đầu tư mà còn ở sự lãnh đạo trực tiếp và triệt để hơn nữa đối với sự phát triển giáo dục của nước nhà. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, những giải pháp chỉ đạo giáo dục của Đảng và Nhà nước cũng cần có những đổi mới, sáng tạo và linh hoạt hơn để thích ứng với thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

3. Giáo dục vừa đáp ứng yêu cầu xã hội, vừa thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi cá nhân, mang đến niềm vui học tập cho mỗi người và tiến tới một xã hội học tập

Để khắc phục tình trạng vừa lãng phí vừa thiếu hụt trong đào tạo nhân lực, giáo dục phải bám sát nhu cầu và đòi hỏi của xã hội, thông qua việc thiết kế các chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu cung cấp nhân lực phục vụ các ngành kinh tế đa dạng. Vì người học có những mong muốn, nhu cầu khác nhau, điều kiện sống và học tập khác biệt, giáo dục chỉ thực sự có hiệu quả nếu không đồng nhất với tất cả mọi đối tượng. Giáo dục phải chú trọng nhiều hơn đến cơ hội lựa chọn trong học tập cho mỗi người học. Các chương trình, giáo trình và các phương án tổ chức dạy học phải đa dạng hơn, tạo cơ hội cho mỗi người học những gì phù hợp với chuẩn mực chung nhưng gắn với nhu cầu, nguyện vọng và điều kiện học tập của mình. Mỗi trường học phải trở thành một môi trường sư phạm thân thiện, ở đó người học được cảm thông, chia sẻ, được bày tỏ ý kiến riêng của mình và việc tới trường trở thành một nhu cầu của mỗi người học. Nội dung, phương pháp giáo dục, trách nhiệm và tình thương của đội ngũ nhà giáo, khung cảnh sư phạm của nhà trường là những yếu tố tạo nên sự lôi cuốn của mỗi nhà trường.

4. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về giáo dục phải dựa trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng nền giáo dục giàu tính nhân văn, tiên tiến, hiện đại

Toàn cầu hóa mang đến nhiều cơ hội cùng với không ít thách thức, trong đó có nguy cơ văn hóa dân tộc bị lu mờ bởi việc du nhập những lối sống và giá trị xa lạ, cực đoan, thậm chí phi nhân tính. Cần vận dụng những kinh nghiệm giáo dục của nhiều nước tiên tiến trên thế giới để tiết kiệm thời gian, công sức, tiền của, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa nước ta và các nước trên thế giới. Tuy nhiên, việc tiếp nhận những mô hình giáo dục của nước ngoài phải được xem xét thận trọng để phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo tính khả thi đồng thời không làm tổn hại đến những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Vận dụng những bài học kinh nghiệm của quốc tế phải được tiến hành đồng thời với việc nhấn mạnh hơn những yếu tố dân tộc trong nội dung và phương pháp giáo dục, giúp người học hiểu biết sâu sắc về văn hóa Việt Nam, biết tự hào về truyền thống dân tộc, có ý thức và trách nhiệm gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

5. Phát triển dịch vụ giáo dục và tăng cường yếu tố cạnh tranh trong hệ thống giáo dục là một trong những động lực phát triển giáo dục

Sự quan tâm của nhà nước trong nhiều năm qua đã được thể hiện rõ thông qua đầu tư ngày một tăng cho giáo dục. Tuy nhiên, với một đất nước còn nghèo như nước ta, đầu tư trong ngân sách nhà nước cho giáo dục dù đã tăng nhưng vẫn còn nhỏ bé so với yêu cầu phát triển giáo dục đáp ứng mong mỏi của người dân và so với sự đầu tư cho giáo dục của các nước tiên tiến trên thế giới. Phát triển những dịch vụ giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, nhằm thu hút nhiều hơn các nguồn vốn đầu tư, tạo điều kiện mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân. Bên cạnh đầu tư của nhà nước và của xã hội cho giáo dục, mỗi cá nhân tham gia vào sự nghiệp giáo dục phải có những đóng góp tích cực góp phần tạo nên chất lượng giáo dục. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục và giữa các cá nhân tham gia giáo dục là một trong những động lực phát triển giáo dục. Mỗi học sinh, giáo viên, nhà quản lý và mỗi cơ sở giáo dục cần được tạo cơ hội để phấn đấu đạt kết quả cao trong các nhiệm vụ của mình, từ đó tạo nên uy tín riêng, và ngược lại được đối xử bằng sự tôn vinh, bằng các chính sách đãi ngộ, đầu tư tương xứng với những đóng góp, uy tín và hiệu quả công việc.

6. Giáo dục phải đảm bảo chất lượng tốt nhất trong điều kiện chi phí còn hạn hẹp

Chất lượng là mục tiêu hàng đầu của mọi nền giáo dục, nhưng chất lượng cũng đòi hỏi những đầu tư thỏa đáng. Trong vài thập niên tới ở nước ta chưa thể đòi hỏi sự đầu tư của nhà nước cho giáo dục ngang bằng đầu tư của nhiều nước khác trên thế giới, đặc biệt là những nước phát triển. Cần tận dụng sự đầu tư của nhà nước, những đóng góp của xã hội với nguồn lực còn hạn hẹp để đạt đến chất lượng giáo dục tốt nhất, mặc dù chất lượng này có thể chưa so sánh được với chất lượng giáo dục cao của nhiều nước khác trên thế giới. Việc tận dụng các kinh nghiệm và mô hình giáo dục của các nước tiên tiến, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện tiết kiệm, chống tiêu cực trong giáo dục, thu hút các nhà khoa học, nhà giáo giỏi trong và ngoài nước tham gia giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu khoa học…là những giải pháp cần được chú trọng nhằm sử dụng tối ưu các nguồn đầu tư và hỗ trợ để nâng cao chất lượng giáo dục.

IV. CÁC MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC GIAI ĐOẠN 2009 - 2020

Trong vòng 20 năm tới, phấn đấu xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại, khoa học, dân tộc, làm nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững đất nước, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới một xã hội học tập, có khả năng hội nhập quốc tế; nền giáo dục này phải đào tạo được những con người Việt Nam có năng lực tư duy độc lập và sáng tạo, có khả năng thích ứng, hợp tác và năng lực giải quyết vấn đề, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, có thể lực tốt, có bản lĩnh, trung thực, ý thức làm chủ và tinh thần trách nhiệm công dân, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Từ nay đến năm 2020, giáo dục Việt Nam phải đạt được các mục tiêu sau:

1. Quy mô giáo dục được phát triển hợp lý, chuẩn bị nguồn nhân lực cho đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tạo cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dâ.

a. Giáo dục mầm non

Thực hiện phổ cập giáo dục một năm cho trẻ 5 tuổi để chuẩn bị tốt cho trẻ vào học lớp một. Đến năm 2020 có 99% trẻ 5 tuổi được học một năm mẫu giáo chuẩn bị vào lớp 1.

b. Giáo dục phổ thông

Đến năm 2020 có 99% trẻ em trong độ tuổi đi học tiểu học và trung học cơ sở. Tỷ lệ trẻ em người dân tộc trong độ tuổi được đến trường ở tiểu học là 90% và trung học cơ sở là 85%.

Giáo dục hoà nhập được thực hiện ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo để đến năm 2020 có 70% người khuyết tật và 95% trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được học hòa nhập.

Đến năm 2020, 100% số tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục 9 năm đúng độ tuổi, 80% thanh niên Việt Nam trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương.

c. Giáo dục nghề nghiệp

Tạo bước đột phá về giáo dục nghề nghiệp để tăng mạnh tỷ lệ lao động qua đào tạo. Vào năm 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề trong lực lượng lao động đạt 60%.

Hệ thống giáo dục nghề nghiệp được tái cấu trúc đảm bảo phân luồng sau trung học cơ sở và liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo để đến năm 2020 có đủ khả năng tiếp nhận 30% số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học và có thể tiếp tục học các trình độ cao hơn khi có điều kiện. Đến 2020 có khoảng 30% số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào học ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

d. Giáo dục đại học

Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân lên 450 vào năm 2020. Tỷ lệ sinh viên so với dân số trong độ tuổi từ 18 đến 24 là 40% vào năm 2020. Mở rộng quy mô giáo dục đại học ngoài công lập, phấn đấu đến 2020 tỷ lệ sinh viên học trong các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập chiếm 30%-40% tổng số sinh viên trong cả nước. Đến năm 2020, có khoảng 15.000 sinh viên nước ngoài đăng ký vào học tại các trường đại học Việt Nam.

e. Giáo dục thường xuyên

Giáo dục thường xuyên được tiếp tục đẩy mạnh, tạo cơ hội cho mọi người có thể học tập suốt đời phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình. Tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 trở lên là 98% vào năm 2020, trong đó tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 đến 35 là 99%. Đội ngũ người lao động được đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn định kỳ và thường xuyên theo các chương trình giáo dục, đáp ứng nhu cầu của các đơn vị sử dụng lao động và nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp, góp phần tăng thu nhập hoặc chuyển đổi nghề nghiệp của cá nhân người lao động.

2. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao, tiếp cận được với chất lượng giáo dục của khu vực và quốc tế

a. Giáo dục Mầm non

Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được chuyển biến về cơ bản, giúp trẻ phát triển hài hòa về thể chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ vào học lớp 1. Đến năm 2020 có 90% số trẻ 5 tuổi đạt chuẩn phát triển; giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục mầm non ở mức dưới 10%.

b. Giáo dục phổ thông

Chất lượng toàn diện của học sinh phổ thông có sự chuyển biến rõ rệt để phát triển năng lực làm người. Học sinh có ý thức và trách nhiệm cao trong học tập, có lối sống lành mạnh, có bản lĩnh, trung thực, có năng lực làm việc độc lập và hợp tác, có kỹ năng sống, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, ham thích học tập và học tập có kết quả cao; có năng lực tự học. Khả năng sử dụng ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh trong học tập và vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống của học sinh phổ thông Việt Nam tương đương với học sinh ở các nước phát triển trong khu vực; tỷ lệ hoàn thành cấp học được duy trì ở mức 90% trở lên đối với cả ba cấp học.

Cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh đại trà, những học sinh có năng khiếu được chú trọng đào tạo và bồi dưỡng một cách toàn diện để trở thành vốn quý của đất nước.

Đối với giáo dục tiểu học: năng lực đọc hiểu và làm toán của học sinh được nâng cao rõ rệt, tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu trong các đánh giá quốc gia về đọc hiểu và tính toán là 90% vào năm 2020. Tất cả học sinh tiểu học được học 2 buổi ngày vào năm 2020. Học sinh tiểu học được học chương trình tiếng Anh mới từ lớp 3 và 70% số này đạt mức độ 1 theo chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế vào năm 2020.

Đối với giáo dục trung học: học sinh được trang bị học vấn cơ bản, kỹ năng sống, những hiểu biết ban đầu về công nghệ và nghề phổ thông, được học một cách liên tục và hiệu quả chương trình ngoại ngữ mới để đến cuối thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21 có trình độ ngoại ngữ ngang bằng với các nước trong khu vực.

c. Giáo dục nghề nghiệp

Sau khi hoàn thành các chương trình giáo dục nghề nghiệp, học sinh có năng lực và có đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại, khả năng sử dụng ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh trong học tập và làm việc tương đương với học sinh ở các nước phát triển trong khu vực, đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu lao động và khả năng cạnh tranh nhân lực của đất nước. Đến 2020 có trên 95% số học sinh tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc.

d. Giáo dục đại học

Sinh viên sau khi tốt nghiệp có kiến thức hiện đại, kỹ năng thực hành nghề nghiệp vững chắc, có khả năng lao động sáng tạo, có tư duy độc lập, phê phán và năng lực giải quyết vấn đề, có khả năng thích ứng cao với những biến động của thị trường lao động, có khả năng sử dụng tiếng Anh trong học tập, nghiên cứu và làm việc sau khi tốt nghiệp, 80% số sinh viên tốt nghiệp đạt mức 3 theo chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế. Đến năm 2020 có ít nhất 5% tổng số sinh viên tốt nghiệp đại học có trình độ ngang bằng với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở các trường đại học hàng đầu trong khối ASEAN, 80% số sinh viên tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc.

Đồng thời, với việc nâng cao chất lượng toàn diện sinh viên diện đại trà, mở rộng diện đào tạo, bồi dưỡng sinh viên tài năng để chuẩn bị đội ngũ nhân lực có trình độ cao, thạo ngoại ngữ, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và thế giới để đến năm 2020, Việt Nam đứng trong nhóm 50 nước đứng đầu về năng lực cạnh tranh về nhân lực.

e. Giáo dục thường xuyên

Kết quả xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục 9 năm được củng cố một cách bền vững. Chất lượng giáo dục thường xuyên được nâng cao, giúp người học có kiến thức, kỹ năng thiết thực để có thể tiếp tục tham gia các chương trình giáo dục liên thông, đa dạng và đáp ứng được yêu cầu của công việc, nâng cao chất lượng cuộc sống.

3. Các nguồn lực cho giáo dục được huy động đủ, phân bổ và sử dụng có hiệu quả để đảm bảo điều kiện phát triển giáo dục

Nguồn lực được đảm bảo để thực hiện giáo dục có chất lượng ở mọi cấp học và trình độ đào tạo. Đảm bảo duy trì tỷ lệ đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân sách nhà nước được là 20% trong giai đoạn 2008-1012, phấn đấu đạt 21% vào năm 2015, trong đó tập trung ưu tiên cho giáo dục phổ cập, giáo dục ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa và hỗ trợ tài chính cho những học sinh, sinh viên thuộc các nhóm thiệt thòi và các nhóm được hưởng chính sách ưu tiên. Tỷ lệ hỗ trợ nghiên cứu khoa học của các cơ sở giáo dục đại học đạt và duy trì ở mức 1,5% ngân sách nhà nước từ năm 2015.

Ngoài ngân sách nhà nước, nguồn lực cho giáo dục sẽ được huy động từ các tổ chức kinh tế-xã hội, các đơn vị sử dụng nhân lực sau đào tạo, được chia sẻ với người học và các hộ gia đình.

Việc phân bổ tài chính cho các cơ sở giáo dục được thực hiện dựa trên nhu cầu thực và kết quả hoạt động của từng cơ sở nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các cơ sở phấn đấu nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.

Nguồn lực cho giáo dục được quản lý và sử dụng có hiệu quả trên cơ sở nâng cao tính tự chủ của các cơ sở giáo dục, đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm đối với Nhà nước, người học và xã hội. Từ nay đến 2020, tất cả các cơ sở giáo dục đều được kiểm toán và công bố công khai kết quả kiểm toán.

V- CÁC GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC

Các giải pháp phát triển giáo dục trong giai đoạn 2008-2020 đảm bảo các định hướng sau:

- Thể hiện rõ mục đích tạo động lực, phát huy nguồn lực và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho giáo dục; đồng thời có tính toàn diện và đột phá để thực hiện có hiệu quả tất cả các mục tiêu giáo dục;

- Thể hiện tinh thần phát huy cao độ nội lực, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế trong giai đoạn hội nhập;

- Xác định ưu tiên cho mỗi giai đoạn phát triển của giáo dục

Các giải pháp mang tính đột phá

Giải pháp 1: Đổi mới quản lý giáo dục

- Thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục. Việc quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ do Bộ Giáo dục và Đào tạo đảm nhận. Thực hiện dần việc bỏ cơ chế Bộ chủ quản đối với các cơ sở giáo dục đại học. Trong thời gian trước mắt, các Bộ, các địa phương còn quản lý các trường đại học, cao đẳng phải phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng quy chế quản lý trường đại học, cao đẳng.

- Hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách giáo dục; xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, điều tiết cơ cấu và quy mô giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu của người học và nhân lực của đất nước trong từng giai đoạn; triển khai hệ thống đảm bảo chất lượng, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra giáo dục.

- Thực hiện công khai hóa về chất lượng giáo dục, nguồn lực cho giáo dục ĐH và tài chính của các cơ sở giáo dục, thực hiện giám sát xã hội đối với chất lượng và hiệu quả giáo dục.

- Thực hiện phân cấp quản lý mạnh đối với các địa phương và các cơ sở giáo dục, nhất là đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các cấp về nội dung đào tạo, tài chính, nhân sự; kiên quyết thúc đẩy thành lập Hội đồng trường ở các cơ sở giáo dục đại học để thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của đơn vị.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong toàn bộ hệ thống quản lý giáo dục, từ cơ quan trung ương tới các địa phương, các cơ sở giáo dục nhằm tạo ra một cơ chế quản lý gọn nhẹ, hiệu quả và thuận lợi cho người dân. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm “tin học hóa” quản lý giáo dục ở các cấp.

- Xây dựng và triển khai đề án đổi mới cơ chế tài chính cho giáo dục nhằm đảm bảo mọi người đều được học hành, huy động ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà nước và xã hội để nâng cao chất lượng và tăng quy mô giáo dục.

Giải pháp 2: Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục

- Để tạo sự cạnh tranh lành mạnh và ý thức phấn đấu trong đội ngũ nhà giáo, tiến tới thực hiện chế độ hợp đồng thay cho biên chế trong quá trình tuyển dụng và sử dụng các giáo viên, giảng viên và các viên chức khác. Năm 2009 bắt đầu thí điểm ở một số trường phổ thông và trường đại học, tới năm 2010 có 100% số giáo viên, giảng viên mới được tuyển dụng làm việc theo chế độ hợp đồng thay cho biên chế.

- Để đảm bảo đến năm 2020 có đủ giáo viên để thực hiện giáo dục toàn diện, dạy học các môn học tích hợp, dạy học phân hóa, dạy học 2 buổi/ngày ở phổ thông; để đảm bảo tỷ lệ giáo viên trên lớp, học sinh trên giáo viên, sinh viên trên giảng viên, tiếp tục tăng cường đội ngũ nhà giáo cho các cơ sở giáo dục. Có chính sách miễn giảm học phí, cung cấp học bổng đặc biệt để thu hút các học sinh giỏi vào học tại các trường sư phạm. Đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo sư phạm, từ mô hình đào tạo tới nội dung và phương pháp đào tạo nhằm đào tạo đội ngũ giáo viên vững vàng về kiến thức khoa học cơ bản và kỹ năng sư phạm. Phát triển các khoa sư phạm nghề tại các trường đại học kỹ thuật để đào tạo sư phạm nghề cho số sinh viên đã tốt nghiệp các trường này nhằm cung cấp đủ giáo viên cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

- Tổ chức các chương trình đào tạo đa dạng nhằm nâng cao chuẩn trình độ đào tạo cho đội ngũ nhà giáo. Đến năm 2020 có 80% số giáo viên mầm non và 100% số giáo viên tiểu học đạt trình độ từ cao đẳng trở lên; 100% số giáo viên trung học cơ sở và trung học phổ thông đạt trình độ đại học trở lên; 20% số giáo viên ở các trường trung cấp nghề và 35% số giáo viên ở các trường cao đẳng nghề đạt trình độ thạc sỹ trở lên; 80% giảng viên cao đẳng đạt trình độ thạc sỹ trở lên, trong đó có 15% là tiến sỹ; 100% giảng viên đại học đạt trình độ thạc sỹ trở lên, trong đó có 30% là tiến sỹ.

- Thực hiện đề án đào tạo giảng viên cho các trường đại học cao đẳng từ 2008 đến năm 2020 với ba phương án đào tạo: đào tạo ở trong nước, đào tạo ở nước ngoài và kết hợp đào tạo trong và ngoài nước. Tập trung giao nhiệm vụ cho một số trường đại học và viện nghiên cứu lớn trong nước, đặc biệt là các đại học theo hướng nghiên cứu đảm nhiệm việc đào tạo số tiến sỹ trong nước với sự tham gia của các giáo sư được mời từ những đại học có uy tín trên thế giới.

- Tiếp tục xây dựng, ban hành và tổ chức đánh giá giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp đối với giáo viên mầm non và phổ thông, đánh giá theo chuẩn nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên giáo dục nghề nghiệp và giảng viên đại học.

- Tăng cường các khóa bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên theo các chương trình tiên tiến, các chương trình hợp tác với nước ngoài để đáp ứng được nhiệm vụ nhà giáo trong tình hình mới.

- Có chính sách khuyến khích thực sự đối với đội ngũ nhà giáo thông qua chế độ đãi ngộ xứng đáng. Năm 2009 bắt đầu thí điểm để tiến tới thực hiện việc hiệu trưởng quyết định mức lương cho từng giáo viên, giảng viên dựa trên kết quả công tác của cá nhân ở các cơ sở giáo dục.

- Thu hút các nhà khoa học nước ngoài có uy tín và kinh nghiệm, các trí thức Việt kiều tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại Việt Nam.

- Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục; xây dựng lực lượng cán bộ quản lý tận tâm, thạo việc, có năng lực điều hành; xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục; có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ quản lý. Khuyến khích các cơ sở giáo dục ký hợp đồng với các nhà giáo, nhà khoa học có uy tín và kinh nghiệm trong và ngoài nước quản lý và điều hành cơ sở giáo dục.

Các giải pháp khác

Giải pháp 3: Tái cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân và mở rộng mạng lưới cơ sở giáo dục

- Tái cấu trúc cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng đa dạng hóa, chuẩn hóa, bảo đảm tính phân luồng rõ rệt và liên thông sau trung học cơ sở để tạo cơ hội học tập suốt đời cho người học. Vào năm 2009 sẽ ban hành Nghị định của Chính phủ về cơ cấu mới của hệ thống giáo dục quốc dân .

- Phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục mầm non, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, đảm bảo đến năm 2020 có 100% xã, phường trên toàn quốc có trường mầm non.

- Mạng lưới trường phổ thông được phát triển khắp toàn quốc, đảm bảo không còn tình trạng học sinh tiểu học bỏ học vì trường quá xa nhà. Củng cố và mở rộng hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh, cấp huyện và trường bán trú, đến năm 2020 có 8% học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông là người dân tộc được học ở các trường phổ thông dân tộc nội trú.

- Mở rộng mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để đến năm 2020 có thể tiếp nhận 30% số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và 30% số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào học một ngành nghề và có thể tiếp tục học lên trình độ cao hơn khi có điều kiện.

- Quy hoạch lại mạng lưới các trường cao đẳng, đại học trên phạm vi toàn quốc và từng vùng kinh tế, đáp ứng nhu cầu nhân lực về quy mô và cơ cấu ngành nghề đào tạo, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Phát triển các trường cao đẳng cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cho các địa phương.

- Mở rộng mạng lưới các cơ sở giáo dục thường xuyên. Đến năm 2020 có 100% quận, huyện có trung tâm giáo dục thường xuyên, có 95% xã, phường có trung tâm học tập cộng đồng.

Giải pháp 4: Đổi mới chương trình và tài liệu giáo dục

- Hoàn thành việc thí điểm chương trình giáo dục mầm non mới vào năm 2008 để chính thức triển khai trên phạm vi toàn quốc từ năm 2010. Thực hiện chương trình chuẩn bị tiếng Việt cho lớp mẫu giáo 5 tuổi vùng núi, vùng dân tộc.

- Chậm nhất đến năm 2015 áp dụng trên toàn quốc bắt đầu từ lớp 1 chương trình giáo dục phổ thông mới, theo hướng tích hợp ở những lớp dưới, phân hóa mạnh ở những lớp trên, chú trọng giáo dục quốc phòng an ninh, tăng cường các hoạt động xã hội của học sinh để bảo tồn các truyền thống văn hóa xã hội, nhằm xây dựng nền học vấn phổ thông cơ bản, vững chắc và phát triển năng lực cá nhân của người học, phù hợp với điều kiện học tập của mỗi học sinh. Dựa trên chương trình chuẩn quốc gia, xây dựng các chương trình giáo dục địa phương phù hợp với nhu cầu và điều kiện tổ chức giáo dục của các vùng, miền, đặc biệt đối với các địa phương có học sinh dân tộc thiểu số. Tổ chức biên soạn một số bộ sách giáo khoa dựa trên chương trình giáo dục phổ thông quốc gia. Các bộ sách sẽ do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức thẩm định và trao quyền lựa chọn sử dụng cho các địa phương. Đồng thời, tiếp tục biên soạn các tài liệu hướng dẫn giáo viên, tài liệu tham khảo, đặc biệt chú trọng đến các tài liệu nghe-nhìn, hỗ trợ việc dạy và học.

- Đối với giáo dục nghề nghiệp, hoàn thành việc thiết kế thêm 200 chương trình khung trình độ cao đẳng nghề và 300 chương trình khung trình độ trung cấp nghề vào năm 2010. Từ năm 2015 trở đi, các cơ sở đào tạo nghề sẽ tự quyết định chương trình đào tạo dựa trên cơ sở mục tiêu đào tạo. Xây dựng 100 chương trình khung trình độ trung cấp chuyên nghiệp vào năm 2010. Áp dụng các chương trình đào tạo tiên tiến của các cơ sở giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp có uy tín trên thế giới, đến năm 2020 có 50% số cơ sở giáo dục nghề nghiệp áp dụng các chương trình này.

- Hoàn thành việc thiết kế 100 chương trình khung trình độ cao đẳng và 200 chương trình khung trình độ đại học vào năm 2010 và tăng dần trong những năm tiếp theo. Áp dụng các chương trình đào tạo tiên tiến của các đại học có uy tín trên thế giới. Từ 2011 chuẩn bị để hội nhập hệ thống chuẩn đào tạo nghề của cộng đồng châu Âu. Đến năm 2020 có ít nhất 150 chương trình tiên tiến quốc tế được sử dụng tại 30% số trường đại học Việt Nam.

- Thực hiện các chương trình đổi mới về dạy học các môn học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là chương trình nâng cao hiệu quả dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Đảm bảo học sinh được học liên tục tiếng Anh từ lớp 3 cho tới giáo dục nghề nghiệp, đại học và đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế. Cùng với chương trình môn tiếng Anh với tư cách một môn ngoại ngữ, đến năm 2010 thực hiện dạy học song ngữ Anh-Việt ở một số môn học từ cuối cấp trung học cơ sở, bắt đầu ở một số địa phương và cơ sở giáo dục có điều kiện với quy mô tăng dần trong những năm tiếp theo. Đối với giáo dục đại học, thực hiện giảng dạy một số môn học bằng tiếng Anh ở một số trường đại học từ năm 2008 với quy mô và số môn học tăng dần trong những năm sau.

- Chuyển mạnh sang đào tạo theo học chế tín chỉ trong hệ thống đào tạo. Đến 2015 có 50% và năm 2020 có 100% chương trình giáo dục nghề nghiệp thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ. Từ năm 2010 các trường đại học chuyển hoàn toàn sang đào tạo theo học chế tín chỉ.

- Các chương trình giáo dục thường xuyên sau xoá mù, bổ túc văn hoá trên tiểu học, các chương trình đáp ứng yêu cầu người học, các chương trình bồi dưỡng thường xuyên được xây dựng lại, cung cấp được cho người học kiến thức và kỹ năng hiện đại.

Giải pháp 5: Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập, kiểm định và đánh giá các cơ sở giáo dục

- Thực hiện cuộc vận động toàn ngành đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, biến quá trình học tập thành quá trình tự học có hướng dẫn và quản lý của giáo viên.

- Xây dựng lại những tài liệu đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập cho các giáo viên từ mầm non đến giáo dục nghề nghiệp và đại học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học. Đến năm 2015 có 80% giáo viên phổ thông, 100% giáo viên, giảng viên các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học sử dụng thành thạo công nghệ thông tin và truyền thông vào dạy học. Tăng cường thanh tra về đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá. Đảm bảo đến năm 2020 có 100% giáo viên, giảng viên từ mầm non đến đại học được đánh giá là áp dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học mới.

- Thực hiện đánh giá quốc gia về chất lượng học tập của học sinh 3 năm một lần và công bố kết quả để toàn xã hội biết rõ chất lượng thực sự của giáo dục phổ thông. Trước mắt, thực hiện đánh giá đối với hai môn Toán và Tiếng Việt (hoặc Ngữ Văn) và từng bước tăng các môn cần đánh giá ở phổ thông; trong giai đoạn đầu thực hiện đánh giá ở các lớp 5, 9 và 11, tiến tới thực hiện đánh giá ở các lớp 3, 5, 7, 9 và 11.

- Từ 2012, thực hiện đánh giá quốc tế kết quả học tập của HS để chất lượng giáo dục được so sánh với hơn 60 nước trên thế giới.

- Để xây dựng môi trường sư phạm bình đẳng, thúc đẩy sự nỗ lực phấn đấu và nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, bắt đầu từ năm 2009 thực hiện việc học sinh đánh giá giáo viên, sinh viên đánh giá giảng viên, giáo viên và giảng viên đánh giá cán bộ quản lý.

- Xây dựng một số trung tâm đánh giá kỹ năng nghề, công nhận trình độ của người học, tạo điều kiện cho người lao động được học tập suốt đời và di chuyển trong thị trường việc làm.

- Xây dựng hệ thống tổ chức kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục. Triển khai kiểm định các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập, công bố công khai kết quả kiểm định. Đến năm 2020, tất cả số cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, nghề nghiệp và cơ sở giáo dục đại học được tham gia chương trình kiểm định và tái kiểm định chất lượng giáo dục theo chỉ đạo của Bộ GD-ĐT.

- Tổ chức xếp hạng các cơ sở giáo dục đào tạo và công bố công khai kết quả trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Giải pháp 6: Xã hội hóa giáo dục

- Thể chế hóa vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân và gia đình trong việc giám sát và đánh giá giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.

- Xây dựng cơ chế học phí mới nhằm đảm bảo sự chia sẻ hợp lý giữa nhà nước, người học và các thành phần xã hội. Đối với giáo dục mầm non và phổ thông ở các trường công lập, ngân sách nhà nước là nguồn tài chính chủ yếu để đảm bảo chi phí của quá trình đào tạo. Đối với giáo dục nghề nghiệp và đại học ở các trường công lập, người học có trách nhiệm chia sẻ một phần quan trọng chi phí đào tạo. Các cơ sở giáo dục đào tạo ngoài công lập phải tuân thủ các quy định về chất lượng của Nhà nước và tự quyết định mức học phí.

- Khen thưởng, tôn vinh các nhà hảo tâm, doanh nghiệp đã đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

- Khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập để đảm bảo tỷ lệ sinh viên đại học và cao đẳng ngoài công lập là 20% năm 2010, 30% năm 2015 và 40% năm 2020; nâng tỷ lệ học sinh học nghề (ngắn hạn và dài hạn) ngoài công lập lên khoảng 60% vào năm 2020. Triển khai các chính sách cụ thể của Chính phủ đã ban hành để hỗ trợ cho các cơ sở giáo dục ngoài công lập cả ở đại học, dạy nghề và phổ thông, trước hết về đất đai, thuế và vốn vay. Xác định rõ ràng, cụ thể các tiêu chí thành lập cơ sở giáo dục, bảo đảm chất lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và các tổ chức kinh tế-xã hội tham gia vào công tác thành lập trường theo quy hoạch phát triển của Nhà nước.

- Khuyến khích và tạo điều kiện cho việc mở các trường đại học 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam.

Giải pháp 7: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục

- Hoàn thành việc xây dựng chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất kỹ thuật cho tất cả các loại hình trường nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cơ bản thực hiện việc đổi mới quá trình dạy học. Trong đó, chú trọng đến chuẩn hóa phòng học, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và trang thiết bị dạy học ở các cấp học, đặc biệt là đồ chơi an toàn cho trẻ em.

- Quy hoạch lại quỹ đất để xây dựng mới trường học hoặc mở rộng diện tích đất cho các trường phổ thông, dạy nghề và các trường đại học đạt tiêu chuẩn nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục, trong đó ưu tiên đầu tư quỹ đất để xây dựng một số khu đại học tập trung.

- Đẩy mạnh chương trình kiên cố hoá trường học, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên, ưu tiên cho giáo dục vùng sâu, vùng cao, vùng khó khăn, bảo đảm đủ phòng học cho mẫu giáo 5 tuổi, cho giáo dục tiểu học và trung học cơ sở học 2 buổi ngày. Đến năm 2020, không còn phòng học tạm ở tất cả các cấp học, 100% trường phổ thông được nối mạng Internet và có thư viện.

- Xây dựng hệ thống thư viện điện tử dùng chung và kết nối giữa các trường đại học trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Xây dựng một số phòng thí nghiệm hiện đại ở các trường đại học trọng điểm.

- Xây dựng các khu ký túc xá cho sinh viên và nhà nội trú cho các trường phổ thông có nội trú ở vùng dân tộc và nhà công vụ cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.

Giải pháp 8: Gắn đào tạo với nhu cầu xã hội

- Tập trung đầu tư xây dựng một số trung tâm phân tích, dự báo nhu cầu nhân lực nhằm cung cấp số liệu và cơ sở khoa học cho việc hướng nghiệp, xây dựng chương trình, lập kế hoạch đào tạo nghề nghiệp. Trong năm 2009 sẽ xây dựng hai trung tâm quốc gia đặt tại Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội với sự hỗ trợ kỹ thuật của các đại học quốc tế có uy tín và kinh nghiệm.

- Nhằm thực hiện có hiệu quả việc cung cấp nhân lực trực tiếp cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo, quy định trách nhiệm và cơ chế phù hợp để mở rộng các hình thức hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo, sử dụng nhân lực và nghiên cứu chuyển giao công nghệ, khuyến khích mở các cơ sở giáo dục đại học trong các doanh nghiệp lớn.

Giải pháp 9: Hỗ trợ giáo dục đối với các vùng miền và người học được ưu tiên

- Hoàn thiện và thực hiện cơ chế học bổng, học phí, tín dụng cho học sinh, sinh viên vùng miền núi và thuộc diện chính sách xã hội; cấp học bổng cho các học sinh, sinh viên đạt thành tích xuất sắc trong học tập, nghiên cứu.

- Bảo đảm nhà công vụ, có chính sách thoả đáng thu hút giáo viên cho vùng núi, vùng khó khăn.

- Có chính sách hỗ trợ đặc biệt cho người khuyết tật học tập.

- Cung cấp sách giáo khoa và học phẩm miễn phí, hoặc giảm giá bán sách giáo khoa cho học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hoặc sinh hoạt và học tập tại các vùng cao, vùng sâu vùng xa.

- Triển khai mạnh các chương trình đào tạo nghề cho nông dân để tham gia hội nhập kinh tế.

- Thực hiện chính sách ưu tiên trong tuyển sinh, đào tạo đối với học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số.

Giải pháp 10: Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu

- Tổ chức một số trường đại học theo hướng nghiên cứu. Đến năm 2010 có 14 và đến năm 2020 có khoảng 30 trường đại học theo hướng nghiên cứu cơ bản.

- Tăng cường gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với nhu cầu xã hội thông qua việc hình thành các liên kết giữa các viện nghiên cứu, các trường đại học với các doanh nghiệp. Đến năm 2015 có ít nhất 50% số đề tài nghiên cứu khoa học được ứng dụng hiệu quả vào sản xuất hoặc đời sống. Nguồn thu của các trường đại học từ các hoạt động khoa học - công nghệ sẽ chiếm giữ một tỷ lệ quan trọng trong tổng nguồn thu của một cơ sở giáo dục đại học, đạt 5% vào năm 2010, 15% vào năm 2015 và 20% vào năm 2020.

- Tập trung đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu khoa học mũi nhọn. Đến năm 2020, xây dựng 10 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia trong hệ thống trường đại học trọng điểm.

Giải pháp 11: Xây dựng các cơ sở giáo dục tiên tiến

- Ở phổ thông, thực hiện cuộc vận động xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” để tạo môi trường giáo dục lành mạnh, mang niềm vui học tập đến cho mọi trẻ em và lôi cuốn xã hội tham gia vào quá trình giáo dục.

- Tất cả các tỉnh, thành phố phát triển các trường chuyên là môi trường bồi dưỡng nhân tài trẻ tuổi cho các địa phương.

- Xây dựng một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp có chất lượng cao để đào tạo nhân lực đạt chuẩn quốc tế cho một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của đất nước.

- Tập trung đầu tư nhà nước và sử dụng vốn vay ODA để xây dựng một số trường đại học Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế để đến năm 2020 có ít nhất 5 trường đại học Việt Nam được xếp hạng trong số 50 đại học hàng đầu của khu vực ASEAN và 2 trường đại học Việt Nam được xếp hạng trong số 200 đại học hàng đầu thế giới. Năm 2015 sẽ hoàn thành cơ bản việc xây dựng 4 trường đại học Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế.

VI. CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA

Để thực hiện được các mục tiêu của Chiến lược giáo dục đã đề ra, ngoài ngân sách hàng năm cho giáo dục và chương trình kiên cố hóa trường học, sẽ dành ngân sách để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo. Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo đến năm 2020 bao gồm những dự án sau:

1. Thực hiện phổ cập một năm giáo dục mẫu giáo 5 tuổi, duy trì kết quả xóa mù chữ và phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, củng cố kết quả phổ cập trung học, và hỗ trợ phát triển giáo dục thường xuyên

2. Đổi mới chương trình, sách giáo khoa và các tài liệu dạy học

3. Đổi mới đánh giá và phát triển hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục

4. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục

5. Thu hút đội ngũ trí thức Việt kiều và nước ngoài tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam

6. Đào tạo, bồi dưỡng học sinh, sinh viên tài năng

7. Tăng cường chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức trong nhà trường

8. Xây dựng hệ thống thông tin về thị trường lao động và đào tạo theo nhu cầu xã hội

9. Xây dựng các trường đại học và các khoa đạt trình độ quốc tế

10. Tăng cường năng lực giáo dục nghề nghiệp

11. Hỗ trợ giáo dục miền núi, học sinh dân tộc thiểu số, vùng có nhiều khó khăn và học sinh có hoàn cảnh khó khăn khác

12. Tăng cường giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật

13. Tăng cường cơ sở vật chất trường học

14. Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục.

Ngành Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Ngành Văn hóa- Thể thao - Du lịch và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh triển khai phong trào thi đua: "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" nhằm giúp giáo dục toàn diện nhân cách của con người Việt Nam ở bậc phổ thông và triển khai cuộc vận động "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo".

Bộ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO

17 tháng 12, 2008

Sẽ xóa bỏ biên chế hàng triệu nhà giáo



Viet Nam Net - "Ban hành vấn đề cải cách hệ thống Giáo dục quốc dân trong quý 1/2009; xóa bỏ biên chế, chuyển sang hợp đồng trong đội ngũ giáo viên, tạo nên sự cạnh tranh phấn đấu của mỗi cá nhân" Đây là 2 giải pháp được Bộ GD-ĐT xác định là mang tính quyết định, đột phá nhằm đổi mới giáo dục Việt Nam. Viện trưởng Viện Khoa học GD (Bộ GD-ĐT) Nguyễn Hữu Châu thông tin về những nội dung cơ bản của dự thảo lần thứ 12 của Chiến lược Phát triển Giáo dục giai đoạn 2009 - 2020. Theo dự thảo, chậm nhất 2015 Việt Nam sẽ có chương trình GD phổ thông mới, hướng đến sự lựa chọn cho từng cá nhân người học (ảnh: ĐHAG)

Ba thách thức

Trong tầm nhìn đến năm 2020, dự thảo nhấn mạnh 3 ý: Phấn đấu đến một nền GD hiện đại, mang tính dân tộc; mang đến một cơ hội học tập tốt hơn cho mọi người; Chuẩn bị đào tạo những người lao động hiện đại có thể làm việc trong môi trường quốc tế.

Từ đó, chiến lược đưa ra 3 mục tiêu, cũng được đánh giá là "3 thách thức cần vượt qua": quy mô, chất lượng và quản lý GD.

Quy mô giáo dục: Phát triển hợp lý để chuẩn bị nguồn nhân lực cho đất nước thời kỳ CNH-HĐH và tạo cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân.

Phổ cập 1 năm đối với trẻ 5 tuổi và điểm nhấn giáo dục đại học"

Cụ thể: Thực hiện phổ cập 1 năm đối với trẻ 5 tuổi - trước khi vào tiểu học. Vấn đề này đang bắt đầu hình thành đề án chuẩn bị.

Ở THPT, sẽ đạt chuẩn phổ cập cơ bản 9 năm đúng độ tuổi ở hầu hết các tỉnh và TP vào năm 2020. Phấn đấu đến năm 2020, có ít nhất 80% dân số trong độ tuổi đạt trình độ tương đương THPT; 65% người lao động trong độ tuổi được đào tạo.

Đặc biệt, GD đại học phải là "điểm nhấn": Phấn đấu để có ít nhất 5 ĐH Việt Nam được xếp hạng trong top 100 ĐH đầu của ASEAN và 2 ĐH nằm trong top 200 của ĐH thế giới.

Chất lượng và hiệu quả: Chương trình và phương pháp giảng dạy GD mầm non phải đổi mới quyết liệt; Giáo dục phổ thông không chỉ đẩy mạnh rèn chữ mà đẩy mạnh rèn năng lực làm người - một con người toàn diện. Đặc biệt, HS phổ thông sẽ có khả năng sử dụng tin học và ngoại ngữ.

Ở các chương trình nghề nghiệp, có 95% HS tốt nghiệp được cơ quan tuyển dụng đánh giá đạt yêu cầu làm việc. Trong vòng 5 năm tới, sẽ cung cấp được nguồn lao động có thể xuất khẩu, có thể cạnh tranh về xuất khẩu nhập khẩu nguồn nhân lực. 5% SV tốt nghiệp ĐH đạt trình độ giỏi của các trường ĐH hàng đầu của ASEAN; SV tài năng sẽ được chú trọng và bồi dưỡng để có thể tạo vốn tinh hoa của đất nước.

Về nguồn lực: Cung ứng đủ, phân bổ và sử dụng hiệu quả, đảm bảo điều kiện phát triển. Phấn đấu đến năm 2015 giữ được mức đầu tư ngân sách cho giáo dục là 21% và duy trì ở những năm tiếp theo. Huy động được từ các tổ chức kinh tế xã hội và được chia sẻ một cách hợp lý giữa nhà nước, gia đình và người học tạo nên “nguồn vốn” đủ để tạo nên nền GD có chất lượng.

11 giải pháp chiến lược

Dự thảo nêu 11 giải pháp, trong đó, có 2 giải pháp ngành GD muốn đệ trình Chính phủ và coi đây là 2 giải pháp mang tính quyết định, đột phá.

1. Đổi mới quản lý GD: Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành vấn đề cải cách hệ thống GD quốc dân trong quý 1/2009 để xóa đi tất cả những yếu kém, bất cập trong hệ thống. Sẽ tiến hành cải cách hành chính trong toàn bộ hệ thống GD, đẩy mạnh ứng dụng tin học hóa quản lý.

2. Xóa bỏ biên chế, chuyển sang hợp đồng đối với đội ngũ nhà giáo, tạo nên sự cạnh tranh phấn đấu của mỗi cá nhân. Sẽ miễn giảm học phí và cung cấp học bổng để thu hút HS vào các trường sư phạm…Thu hút giảng viên nước ngoài có uy tín về dạy học; tăng cường đẩy mạnh các khóa bồi dưỡng giáo viên bằng các chương trình tiên tiến. Đặc biệt là chương trình đào tạo 20.000 tiến sĩ để nâng trình độ giảng viên ĐH ở tầm tốt hơn.

3. Phát triển tài liệu chương trình GD, chậm nhất 2015 Việt Nam sẽ có chương trình GD phổ thông mới với những yếu tố tích cực hơn và hướng đến sự lựa chọn cho từng cá nhân người học. Viết nhiều bộ SGK dựa theo chương trình chuẩn.

4. Định kỳ 3 năm một lần, tổ chức đánh giá chất lượng học tập toàn quốc và công bố công khai để xã hội biết chất lượng GD Việt Nam đang ở mức nào.

5. Xây dựng các chương trình kiểm định độc lập các cơ sở và công bố công khai.

6. XHH GD với cơ chế học phí mới, có tinh thần đảm bảo sự chia sẻ giữa người học-nhà nước và người sử dụng. Nghiên cứu có hỗ trợ cho các cơ sở NCL về đất đai, vốn, thuế và xác định rõ những tiêu chí thành lập các cơ sở này

7. Đẩy mạnh hơn nữa việc hoàn thành các chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất, ưu tiên quỹ đất để xây dựng một số khu ĐH chung, tạo quỹ đất để xây dựng các trường học, phấn đấu học 2 buổi/ngày; Xây dựng một số phòng thí nghiệm hiện đại ở một số trường ĐH trọng điểm.

8.Gắn đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, lập các trung tâm dự báo, phân tích, dự đoán nhu cầu nhân lực của đất nước, cung cấp nguồn thông tin cho các cơ sở đào tạo. Đồng thời tạo điều kiện cho các DN tham gia vào quá trình đào tạo và mở các chương trình đào tạo trong các DN lớn.

9. Hỗ trợ GD cho các vùng miền ưu tiên tạo công bằng xã hội thì sẽ thực hiện cơ chế học bổng, học phí, quỹ tín dụng SV; hỗ trợ và giảm giá SGK cho những HS vùng sâu, vùng xa, đặc biệt với người khuyết tật và ưu tiên tuyển sinh với người dân tộc thiểu số.

10. Nâng cao hiệu quả hoạt động KH-CN, tập trung vào việc tổ chức 1 số ĐH phát triển theo hướng nghiên cứu, phấn đấu đến năm 2010, có 30 trường ĐH theo hướng nghiên cứu cơ bản, còn lại sẽ phát triển theo hướng nghề nghiệp. Hình thành tốt hơn tam giác liên kết giữa các ĐH, cơ sở nghiên cứu và doanh nghiệp.

11. Xây dựng những cơ sở GD tiên tiến, xây dựng 4 trường ĐH đẳng cấp quốc tế. Tiến tới phát triển mạng lưới các trường ĐH thân thiện.



Điểm mạnh và yếu của Giáo dục Việt Nam

Điểm mạnh

Quy mô mạng lưới phát triển đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và THCS được đẩy mạnh và làm tăng tỷ lệ dân số trong độ tuổi biết chữ của cả nước. Công tác XHH được phát triển đã thu hút sự đóng góp của người dân vào quá trình giáo dục của nhiều thành phần trong xã hội. Đến thời điểm này, GD Việt Nam đã trở thành mối quan tâm lớn của nhiều thành phần - họ đã tham gia hiến kế cho GD.

Tính công bằng trong GD được cải thiện, đặc biệt với trẻ em gái, trẻ dân tộc, con em các gia đình nghèo và trẻ em khuyết tật.

Điểm yếu

Yếu kém lớn nhất: Hệ thống GD không đồng bộ, thiếu tính liên thông giữa các cấp học, các trình độ.

Chất lượng GD vẫn còn rất thấp so với yêu cầu đất nước và các nước (dù quá tiến bộ so với giai đoạn trước)

Chương trình GD, SGK chậm đổi mới, lạc hậu.

Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GD chưa đủ tầm đáp ứng mong muốn của thời đại hội nhập, toàn cầu hóa quyết liệt (mặc dù họ đã làm nên “bức tranh GD trong nước” còn nhiều khiếm khuyết nhưng rất đáng tự hào)

Quản lý GD yếu kém, lúng túng.

Cơ sở vật chất thiếu thốn, lạc hậu (mặc dù Chính phủ có nhiều chương trình đầu tư)

Tùng Linh (ghi)

13 tháng 12, 2008

Nhà giáo Hoàng Đạo Chúc:"Chống gậy" đi tìm ánh sáng thảm án "Lệ Chi Viên"



Mai Thục (Báo Người Hà Nội trực tuyến 12.12.2008)

Đền Côn Sơn, nơi thờ Nguyễn Trãi

NHN - Nhà giáo Hoàng Đạo Chúc bảo: “Những ai cầm đuốc soi vào quá khứ, xây đền thờ, dựng tượng, tôn vinh Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ- thiếp yêu của danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi là “Những người yêu Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ”. Đúng vậy. Chúng tôi đã yêu Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ. Song chưa ai dám so với tình yêu của Hoàng Đạo Chúc. Ông yêu Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ đớn đau, khắc khoải, chân thành, hồn hậu tình ruột thịt, và hành động hết mình cho tình yêu cao cả đó.

Hàng chục năm qua, ông âm thầm, lăn lộn, tìm tòi, nắm tay các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, văn nghệ sĩ, học giả và các doanh nhân tài năng, tâm đức… cùng nhau “xé màn đêm lịch sử”, tìm ra ánh sáng bị vùi lấp quanh “Thảm án Lệ Chi Viên” gần sáu trăm năm trước, và xây đền, đúc tượng thờ Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ.

Cả dân tộc xót đau. Không bao giờ quên. Ngày 17-8 năm Nhâm Tuất (1442). Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ và ba họ đã bị xử trảm. Tiếng oan dậy đất trời. Xao xác Thăng Long. Truyền cả địa cầu. Không năm tháng.

Nửa đêm về sáng ngày 4-8 năm Nhâm Tuất, vua Lê Thái Tông đột ngột băng hà tại Lệ Chi Viên (vườn vải thuộc xã Đại Lai, nay là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Lê Thái Tông đi tuần miền Đông và ghé Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi, cùng Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ về Thăng Long, nghỉ lại Lệ Chi Viên cái đêm định mệnh ấy. Lê Thái Tông chết. Nguyễn Thị Lộ ở bên. Nguyễn Thị Lộ - Nguyễn Trãi bị vu tội giết vua.

Thảm án Lệ Chi Viên kinh hoàng. Lệ Chi Viên - nỗi đau tinh thần của dân tộc, đời này sang đời khác. Hai mươi năm sau. Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, khẳng định Nguyến Thị Lộ không có tội. Nhưng số đông quan lại xu nịnh và nhà Nho hủ lậu không dám nhìn thẳng vào sự thật. Không ai dám lên tiếng tố cáo Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ đã bị giết bởi “lưỡi dao oan nghiệt của cái triều đình hèn hạ và ngu muội do chính Nguyễn Trãi đã chiến đấu hơn mười năm gian khổ để góp phần xây dựng nên” (Trần Huy Liệu). Họ nhìn Nguyễn Thị Lộ bằng con mắt tầm thường, khinh rẻ phụ nữ. Họ không biết nhìn vào tâm hồn, trí tuệ, tình yêu thương lớn của người đàn bà ấy, mà chỉ nghĩ về tính dục, thân thể, sắc đẹp của nàng… cho rằng vua say tửu sắc với Nguyễn Thị Lộ mà chết. (Nếu đúng thế thì đáng đời kẻ làm vua chơi bời vô độ! Tại sao lại kết tội Nguyễn Thị Lộ giết vua?).

Bọn bồi bút phủ lên vụ án Lệ Chi Viên câu chuyện “Rắn báo oán”, đổ lỗi cho Nguyễn Thị Lộ theo lối hoang đường, nhằm xoa dịu, trấn an. Nhưng lòng dân đau đớn. Những ông quan thanh liêm và kẻ sĩ, uất hận- biết rõ vì sao Nguyễn Trãi phải chết?

Bởi ông vạch tội “bọn bầy tôi hèn mọn trong cung đình, lạchuyên việc xếp đặt lễ nhạc, như vậy chẳng tủi nhục cho nước nhà lắm sao? Bởi Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ dám can thiệp vào sự tranh giành quyền lực nơi hậu cung giữa Nguyễn Thị Anh và Ngô Thị Ngọc Dao, cứu Ngô Thị Ngọc Dao. Nguyễn Thị Anh căm thù vợ chồng Nguyễn Trãi. Bởi Lê Thái Tông rất tin dùng Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ, thường xuyên đàm đạo với nàng.Cái chết do hàng ngàn nguyên cớ của vua Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên, có mặt Nguyễn Thị Lộ, là dịp tốt để Nguyễn Thị Anh diệt vợ chồng Nguyễn Trãi và nhiếp chính thay con trai hai tuổi (vua Lê Nhân Tông). Thảm án Lệ Chi Viên là vụ đảo chính cung đình, do Nguyễn Thị Anh và bè lũ chủ mưu. Nguyễn Thị Anh đã ra lệnh bắt Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ và chu di tam tộc. Sử gia Ngô Sĩ Liên ngậm ngùi ghi vào quốc sử: “Mọi người đều nói Nguyễn Thị Lộ giết vua”.

Không có bất cứ một bằng chứng nào chứng tỏ Nguyễn Thị Lộ giết vua. Sự thật sáng như trăng Thu, bị quyền lực đen tối đè sâu. Nỗi oan vùi lấp thành ẩn ức, truyền đời nọ, kiếp kia.

Dân làng Khuyến Lương- Thanh Trì- Hà Nội dựng ngôi đền thờ Nguyễn Thị Lộ cùng nỗi đau không hóa giải được, cúng lễ tuần rằm và ngày giỗ Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ (16-8 âm lịch).

Hơn năm trăm năm sau. Chẳng biết có linh ứng gì mà nhà giáo Hoàng Đạo Chúc “chống gậy” đi vận động các nhà sử học, nhà văn hóa, nghệ thuật… mở hội thảo “Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ với Thảm án Lệ Chi Viên”. Hàng trăm tiếng nói vang lên tôn vinh Nguyễn Thị Lộ “Một nữ sĩ tài hoa, một nhà giáo nữ sớm nhất được biết tên, văn chương phẩm hạnh tuyệt vời, người bạn đời tâm đầu ý hợp của danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Hơn nữa, chính bà đã cùng chồng cứu sống mẹ con hoàng phi Ngô Thị Ngọc Dao và hoàng tử Tư Thành, bảo vệ cho đất nước một minh quân lỗi lạc của văn hóa Đại Việt: Hoàng đế Lê Thánh Tông”.( Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ và Thảm án Lệ Chi Viên- tr.13 (NXB Văn hóa Thông Tin- 2004).

Hội thảo gây tiếng vang. Dân tộc ta tự hào về Nguyễn Thị Lộ- người đàn bà đầu tiên được phong nhà giáo cung đình. Đức Bà xứng đáng được tôn vinh. Nhưng giáo sư Vũ Khiêu đốt nén hương trước bàn thờ Đức Bà ở Khuyến Lương đã “Ngậm ngùi thấy rằng trên toàn cõi Việt Nam chỉ còn một ngôi đền tàn tạ này dành cho việc thờ cúng Bà. Phải chăng nỗi oan ức làm tối đen cả trời đất cách đây gần sáu trăm năm, vẫn chưa được xóa sạch đối với con người trong sáng này”. Ông Nguyễn Hữu Đường, Tổng giám đốc Công ty Hòa Bình của thương binh Hà Nội kịp thời công đức hàng trăm triệu tu sửa lại ngôi đền cổ linh thiêng thờ Đức Bà tại Khuyến Lương đã hoang phế. Ngôi đền duy nhất dân ta thờ Nguyễn Thị Lộ ở làng Cổ Mai Đàm, chính là “góc thành Nam”- nơi Nguyễn Trãi dạy dân học và viết Bình Ngô sách, ông đổi tên thành Khuyến Lương, mang ý nghĩa khuyến học, khuyến thiện.

Tiếng nói của kẻ sĩ Hà Thành tiếp sức cho nhà giáo Hoàng Đạo Chúc. Ông lại “khăn gói lên đường”, cùng tiến sĩ Đinh Công Vĩ tìm về làng Tân Lễ huyện Hưng Hà- Thái Bình (nơi sinh Nguyễn Thị Lộ) và về Lệ Chi Viên vận động xây dựng đền thờ Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ ở hai địa danh linh thiêng này. Khó khăn chồng chất khó khăn. Ít người biết Nguyễn Thị Lộ. Nhiều người thành kiến, nghĩ sai về Bà.

Nói chi đến xây đền, dựng tượng? Bền bỉ, kiên định, bỏ qua những lời xầm xì, dị nghị, Hoàng Đạo Chúc nhẫn nại đi khắp nẻo đường, tìm Những người yêu Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ. Và tình yêu dào dạt, chân thành trong ông giáo tuổi bảy mươi đạt đạo làm người, đã truyền sang cộng đồng. Những người yêu Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ tụ quanh ông. Người góp trí tuệ, người góp công, người góp tiền của, chính quyền và dân hai vùng đất trên giành đất, xây đền… Tổng giám đốc Công nghệ và Thương mại T&T Đỗ Quang Hiển, doanh nhân quê Thái Bình, công đức gần tỷ đồng, xây hai ngôi đền thờ Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ ở Lệ Chi Viên và Tân Lễ.

Hai ngôi đền thơm hương khói ở hai vùng đất oan khiên, như chở hồn Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ bay lên, mỉm cười bao dung. Tha thứ cho bọn người mù quáng, tham quyền lực, bạc vàng, mà sinh tàn ác, bạo liệt, giết nhân tài. Lịch sử gần sáu trăm năm im hơi lặng tiếng. Nay hình tượng “trong ngọc, trắng ngà” của Nguyễn Thị Lộ hiển hiện qua bức tượng đồng Nguyễn Thị Lộ do doanh nhân Nguyễn Hữu Đường công đức. Pho tượng Đức Bà cao 2,71m, nặng 1,4 tấn sừng sững màu đồng, khuôn mặt phúc hậu, đoan trang, dáng đĩnh đạc, tay cầm bút, tay cầm sách, thanh thản uy nghi, tỏa Tình Mẹ vĩnh hằng, được đặt trong khuôn viên đền thờ, trên cái ao hình bán nguyệt ở làng chiếu Hới- Tân Lễ, tỏa sáng tình yêu của người đàn bà trí thức Đại Việt- gọi muôn đời, muôn người tỉnh thức.

Giáo sư anh hùng lao động Vũ Khiêu, trên tuổi chín mươi, vẫn nhanh nhẹn, minh triết, uyên thâm, về thắp hương cung kính trước hai ngôi đền thờ Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ và viết mười hai câu đối. Đền Lệ Chi Viên đề “Lệ Chi Viên Thần Nữ” và “Trung trinh tiết liệt”. Giáo sư bảo “Trung trinh tiết liệt” là câu cụ Nguyễn Trãi tặng cụ bà Nguyễn Thị Lộ trong cuộc gọi hồn ở đền thờ Bà tại Khuyến Lương do nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng linh ứng.

Nhà giáo Hoàng Đạo Chúc trào nước mắt. Niềm ao ước tâm linh bấy lâu chìm ẩn, nay hiển hiện thành hai ngôi đền và bức tượng đồng gội nắng mưa xứ sở, tôn vinh, thờ phụng Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ. Du khách trong ngoài nước đến thăm, chiêm ngưỡng pho tượng Đức Bà Nguyễn Thị Lộ. Mỗi người thắp một nén nhang thơm, dâng một bông hoa trắng, trồng một cây hoa trong thơ Nguyễn Trãi, nhắc nhau sống có ích, trong kiếp sống hữu hạn, nhọc nhằn.

Cái chết của Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ là sự hy sinh cho nòi giống. Vì chống lại cái xấu, cái ác, sự bất công trong xã hội mà hai cụ phải chết trước lưỡi gươm quyền lực tăm tối. Hồn thiêng hai cụ thăng hoa, bất tử, tràn sức mạnh tâm linh. Nguyễn Thị Anh và đồng bọn đã nhầm, khi chém đầu kẻ sĩ.

Một kỳ tích. Một nhiệm màu gần sáu trăm năm mới có. Những người yêu Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ cảm tạ nhà giáo Hoàng Đạo Chúc, đã cùng các doanh nhân tiếp hồn cha ông, sáng tạo văn hóa, truyền sức mạnh tâm linh tới con người thời @, tỏa sáng danh thơm Thăng Long- Hà Nội và đất Việt.

Người theo dõi