Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc: “Trái chín
bao giờ chẳng ngọt hơn trái xanh”
SGTT.
Không chỉ dày công nghiên cứu để viết nên những trang sách đầy thấu
hiểu với các bà mẹ sinh con đầu lòng, với tuổi mới lớn, BS Đỗ Hồng Ngọc
còn là người “khai tâm” cho tuổi xế bóng với nhiều tác phẩm như Gió heo
may đã về, Già ơi… chào bạn, Gươm báu trao tay… Nhân ngày Quốc tế người
cao tuổi, ông đã dành cho Sài Gòn Tiếp Thị cuộc trò chuyện thú vị về vị
ngọt của tuổi già.
>> 5 điều giúp bạn sống vui khỏe mỗi ngày >> 7 bí quyết để sống vui khỏe
Ông có hụt hẫng khi phải đối diện với tuổi già?
Ủa,
có cái cột mốc đó ư? Về sinh học thì người ta đã già đi từ hồi mười tám
đôi mươi. Mỗi bộ phận cơ thể già mỗi cách, sớm muộn khác nhau. À, tôi
cũng có về hưu. Nhưng đó là chuyện của Nhà nước. Về hưu tôi còn nhiều
việc hơn để làm.
Với hai tác phẩm Gió heo may
đã về, Già ơi… chào bạn, ông muốn mang lại cho độc giả điều gì? Nhìn từ
góc độ tâm sinh lý, làm sao có thể bước vào tuổi già cho thật “ngọt”?
Già
nào bước vào mà chẳng “ngọt”? Trái chín bao giờ chẳng ngọt hơn trái
xanh? Dù sao Gió heo may đã về, Già ơi… chào bạn, tôi viết là để học,
rồi chia sẻ với bạn bè để bước vào tuổi già cho “ngọt hơn” thế thôi! Bây
giờ nghe nói có thứ hoá chất làm cho trái cây tươi tắn lâu dài (nhưng
bên trong thì thối rữa), nếu dùng cho con người thì cũng sẽ giống vậy
thôi! Sinh – lão – bệnh – tử là chuyện tất yếu của kiếp người mà!
Bác
sĩ đánh giá như thế nào về xu hướng nhiều người trẻ hiện nay rất thực
tế, biết chuẩn bị cho mình những kỹ năng, điều kiện sống và chăm chút
cho đời sống tâm linh để đón nhận tuổi già?
Thực tế
là cần thiết. Lãng mạn thì nguy. Thời tôi khác: một túp lều tranh hai
quả tim vàng là đủ. Bây giờ nhiều gia đình một con, single- mom,
single-dad hơi nhiều. Không lo trước thì ai lo cho? Nhưng tôi cũng ngạc
nhiên thấy nhiều bạn trẻ đôi mươi ngày nay mà “nội công thâm hậu”, hiểu
những vấn đề tâm linh rất sâu sắc. Và mừng thay, họ có lối sống hạnh
phúc, trừ một số ít dị đoan mê tín thì không hay!
Theo ông, làm thế nào để… trẻ vĩnh viễn?
Có người nói không có cái gọi là tuổi già vì khi 20 – 30 tuổi, người ta
còn quá trẻ; 30 – 40 đang trẻ; 40 – 50 hãy còn trẻ; 50 – 60 trẻ không
ngờ; 60 – 70 trẻ lạ lùng và trên 70 thì trẻ vĩnh viễn… Có lẽ đó là lúc
người ta sống không có thời gian, người ta biết sống trong từng sát na
của hiện tại. Nghiên cứu cho thấy để có một tuổi “trẻ vĩnh viễn”, cần:
biết chấp nhận thực tế, thấy già là chuyện tất yếu, đương nhiên. Chấp
nhận điều kiện sống hiện tại (dù kém xa với mong ước). Có ký ức tốt đẹp
về tuổi thơ và tuổi thanh niên. Tự chủ sắp xếp cuộc sống, không bị áp
đặt. Được xã hội và gia đình chấp nhận, tôn trọng. Tham gia các hoạt
động hữu ích theo sức mình. Vui vẻ với các cách giải trí của lứa tuổi,
với bạn bè, con cháu. Hài lòng với cuộc sống lứa đôi. Sức khoẻ tương đối
tốt. Tài chính ổn định, đủ đáp ứng nhu cầu thiết yếu.
Học
giả Nguyễn Hiến Lê đã viết về ông: “Một bác sĩ mà là một thi sĩ thì
luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị…” Triết lý sống
nào giúp ông mãi là một người trẻ lạ lùng?
Sống
trong phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ. Dĩ nhiên, không phải là trốn
chạy tuổi già mà hiểu nó, chấp nhận nó, thưởng thức nó. Khi biết
“enjoy” nó thì quả có nhiều điều thú vị để khám phá. Một người 60, tiếc
mãi tuổi 45 của mình thì khi 75, họ sẽ tiếc mãi tuổi 60, rồi khi 80, họ
sẽ càng tiếc 75! Ta đang ở tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi
đẹp nhất rồi, không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa!
Cho tuổi già một tài khoản riêng
Người
mẹ 57 tuổi của tôi luôn tâm sự với con cháu rằng bà muốn khi về già có
một nơi yên tĩnh như chùa chiền hoặc viện dưỡng lão để sinh sống, con
cháu không phải quá lo lắng cho bố mẹ. Tuy nhiên, với bổn phận làm con,
tôi nghĩ rằng phụng dưỡng cha mẹ già không chỉ là trách nhiệm của con
cháu mà đó còn là cách để con cháu thể hiện sợi dây tình cảm với bậc
sinh thành. Lựa chọn nơi sinh sống khi về già là quyền của bố mẹ, nhưng
con cái phải luôn quan tâm đến cha mẹ mình. Người cao tuổi luôn cần nhất
là sự quan tâm về tinh thần. Ở mỗi giai đoạn thì mỗi sự quan tâm, chăm
sóc của con người dành cho con người có những đặc thù khác nhau. Ví như
ngày xưa thì có câu “trẻ cậy cha, già cậy con”. Nhưng thời buổi này thì
người già cũng có thể sống độc lập nếu họ đã lập kế hoạch cho tuổi già
trước đó khoảng chục năm. Ở tuổi của tôi mà đã lên kế hoạch cho tuổi già
thì có lẽ nhiều người sẽ cho rằng vội vàng quá. Nhưng kế hoạch đó chưa
bao giờ thừa. Bên cạnh các tài khoản cho tổ ấm riêng, dành nuôi dưỡng
con cái ăn học, bạn cần lập một khoản tiết kiệm riêng cho mai sau của
mình. Không phải sớm quá đâu, vì đến lúc bạn không còn làm việc nữa, ít
nhất khoản tiết kiệm đó giúp vợ chồng già đủ cơ hội đi du lịch nhiều
nơi, đủ nuôi sống bản thân, không quá dựa dẫm con cháu. Bên cạnh tạo một
tài khoản riêng, chúng ta cần thiết lập cho mình những kỹ năng gọi là
“sống một mình khi về già”, như kỹ năng tự sơ cứu, xoay xở mọi việc bằng
hai bàn tay. Và quan trọng nhất là tập làm quen với cảm giác một mình
khi không còn người thân bên cạnh, hay nói đúng hơn đó là sống vui với
nỗi cô đơn bằng cách tìm niềm vui khác cho tuổi già.
Hãy chào tuổi già bằng một nụ cười
Ở
giai đoạn nào con người ta cũng cần lập kế hoạch cho giai đoạn tiếp
theo. Tuổi già cũng vậy, cũng cần có bước chuẩn bị từ lúc bước sang tuổi
40, 45. Nhất là với đặc điểm của tình hình hiện nay, nhiều người tình
nguyện xây dựng tổ ấm theo kiểu cha–mẹ đơn thân, thì hẳn họ sẽ dễ dàng
chấp nhận tuổi già trong tư thế độc thân. Có thể chúng ta sẽ cảm giác
một chút trống trải, cô đơn, chẳng dễ chịu gì khi “về vườn”. Nếu chuẩn
bị sẵn thì chúng ta sẽ vượt qua cảm giác kia một cách dễ dàng. Sự chuẩn
bị đó là một tài khoản tiết kiệm, những đối phó sẽ gặp phải và cách vượt
qua thế nào. Mỗi người sẽ có một ứng phó riêng. Với tôi thì sẽ làm
những việc mà khi trẻ chưa có điều kiện, như những chuyến du lịch xa
gần, hoạt động thiện nguyện ở các tổ chức cho người kém may mắn, trẻ bất
hạnh, học khiêu vũ, các môn thể thao cho người già... rất nhiều thứ cho
chúng ta làm đấy! Đừng nghĩ rằng tuổi già là giai đoạn không còn ích
lợi, mà đó chính là thời gian cho chúng ta nghỉ ngơi, làm những việc
mình thích, cho chính mình. Sống lạc quan là một cách làm cho tuổi già
đẹp hơn.
Thơ ẩn hiện giữa đời
Huỳnh Như Phương
Không kể những bài thơ đầu tay thuở học trò,
chỉ tính từ tác phẩm đầu tiên đăng trên tạp chí Bách khoa ở
Sài Gòn năm 1960, đời thơ Đỗ Hồng Ngọc đến nay đã tròn nửa thế kỷ.
Nửa thế kỷ với bốn tập thơ giữa những khoảng cách khá xa nhau:
Tình người (1967), Thơ Đỗ Nghê
(1973), Giữa hoàng hôn xưa (1993), Vòng quanh
(1997), Đỗ Hồng Ngọc gây cho chúng ta cảm tưởng ông là một
nhà thơ thoắt ẩn, thoắt hiện, ẩn mà hiện, hiện mà ẩn. Có phải vì cái
tên Đỗ Hồng Ngọc đã quá nổi tiếng với tư cách một tiến sĩ y khoa đã
phần nào che mờ tác giả như một nhà thơ? Hay là vì chính những tác
phẩm bàn về y học, thiền học của ông, với chất thơ bàng bạc trong
đó, cũng mang đủ những phẩm chất thi ca, cho nên người đọc không còn
phân biệt ở ông đâu là nhà thơ, đâu là thiền giả và đâu là bác sĩ
của tuổi thơ?
Tiếng Việt mình có những từ đồng âm thật là tuyệt diệu: thơ, tuổi
thơ, trẻ thơ, ngây thơ, tình thơ, ngày thơ…, những từ khác nghĩa mà
thật gần nghĩa, cộng hưởng vào nhau. Đọc Đỗ Hồng Ngọc từ gần 40 năm
trước, tôi nhận ra rằng tất cả những “thơ” đó đều hiện diện trong
thơ văn ông. Thì đây, hãy đọc lại một khổ thơ ông viết về Mũi Né năm
1970:
Mũi Né ơi người xưa đã xa
Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ
Năm nay người có về ăn Tết
Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ…
Chút ấu thơ lúc nào cũng làm ta ngậm ngùi, đó là một
nét thuộc về phong cách Đỗ Hồng Ngọc. Hồn thơ này nhạy cảm với những
gì đã qua, những gì đã xa, biết là mất mà không tin là mất, vẫn có
thể níu kéo được, vẫn có thể gìn giữ được, bằng kỷ niệm, bằng tình
yêu và bằng chính thơ ca:
Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa.
Hay cũng mòn phai theo bóng trăng.
Tình cũng ngùi phai theo tháng năm.
Đỗ Hồng Ngọc chọn thơ ca và chọn nhi khoa là phải
lắm. Ông chăm sóc thơ như chăm sóc tuổi thơ và chăm sóc tuổi thơ như
chăm sóc mầm thơ. Ông không xem thơ như mục đích tự thân, cũng không
xem thơ như một công cụ, mà để thơ tựa vào cuộc đời, tựa vào tình
người. Câu thơ của ông chan hoà, giản dị, như tự bật ra từ trái tim,
và khi thấy lòng mình đã lên tiếng vừa đủ, thì thơ ông nhẹ nhàng rút
lui hay ẩn mình trong khói sóng.
Cung cách “ẩn mình” đó là cách hiện diện của thơ Đỗ Hồng Ngọc ngay
từ trước 1975, khi ông chọn bút hiệu ghép từ họ cha và họ mẹ (Đỗ
Nghê) và chọn hình thức phổ biến hạn chế bằng ronéotypé. Trong hồi
ký Những chuyến ra đi, nhà văn Lữ Phương nhắc đến kỷ niệm về
những câu thơ mà cho đến nay ông vẫn không hề biết tác giả là ai:
“Một ông thầy dạy Pháp văn tên Nguyễn Khánh Long ở kế bên nhà tôi,
trước khi bắt đầu giờ học đã đọc cho học sinh chép bài thơ đem từ
Sài Gòn về, không biết ai là tác giả, ca ngợi Quách Thị Trang bị bắn
chết trong một cuộc biểu tình chống Ngô Đình Diệm trước chợ Bến
Thành, trong đó những câu tôi còn nhớ được:
Có cần gì một con đường mang tên em
Một công trường hay một hoa viên
Vì tên em đã lồng khung tuổi trẻ
Vì tên em không còn là một tên riêng…”
Đây chính là bài Em còn sống mãi Đỗ Nghê viết năm 1964, lần
đầu in báo Tình thương, sau được Kiên Giang Hà Huy Hà đăng
lại trên báo Điện tín.
Riêng người viết bài này, thì lần đầu tiên đọc và thuộc thơ Đỗ Nghê
là qua trung gian của báo chí và âm nhạc. Đó là những câu thơ biểu
hiện hơi thở và mùi vị Phan Thiết mà Thu Thuỷ trích dẫn trong một
bài giới thiệu trên nhật báo
Chính luận (1974): Chân run rẩy cát bờ Thương Chánh/ Gió ở
đâu về thơm bước khuya… Trong bài giới thiệu đó, Thu Thuỷ tán
đồng nhận xét của Lữ Kiều, một bạn văn và đồng môn của Đỗ Hồng Ngọc,
rằng hai tố chất chủ đạo của người và thơ Đỗ Nghê là nghiêm túc và
đôn hậu. Đó còn là bài Lời ru do Miên Đức Thắng phổ thơ Đỗ
Nghê, một bài hát “thật chua xót và cũng thật dữ dội”, như Thế Uyên
nhận xét. Chính Lời ru
là một trong ba ca khúc phản chiến đã khiến chính quyền Việt Nam
Cộng hòa đưa Miên Đức Thắng ra toà với bản án năm năm khổ sai:
Rất nhiều đêm rất nhiều đêm
Tôi vỗ về tôi thủ thỉ
Ngủ đi con ngủ đi con
Ngày mai rồi khôn lớn
Cầm súng với cầm gươm.
Ngủ đi con ngủ đi con
Ngày mai rồi khôn lớn
Giết bạn bè anh em
Ngủ cho ngon ngủ cho ngon
Ngày mai rồi khôn lớn
Bán nước mà làm quan.
Cùng với hai bài thơ Em còn sống mãi và Lời
ru nói trên, Thư cho bé sơ sinh tạo ra một “thế chân vạc”
cho vị trí của thơ Đỗ Nghê, khiêm tốn mà riêng biệt, trong thơ đô
thị miền Nam thời chiến. Rõ ràng là Đỗ Nghê có mặt trong dòng thơ
tranh đấu lúc đó như một chọn lựa: chính ông đã từng thuyết trình về
đề tài này ở Đại học Y khoa Sài Gòn năm 1964, như Nguiễn Ngu Í tường
thuật trên tạp chí Bách khoa. Nhưng với bài Thư cho bé sơ
sinh, ngòi bút Đỗ Nghê không chỉ tranh đấu cho hoà bình như một
lẽ phải đương nhiên, mà còn suy ngẫm về thân phận con người trong
một thời buổi nhiễu nhương và phả hơi ấm tình yêu con người trong
một ngôn ngữ hiện đại.
Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em.
…
Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút ấy
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu…
Thật kỳ lạ, ở tuổi 25, Đỗ Hồng Ngọc đã tự đặt cho mình một cột mốc
thơ ca mà chính ông không dễ gì vượt qua. Ni sư Giải Nghiêm có lý
khi cho rằng nhiều bài thơ và bài viết của Đỗ Hồng Ngọc về sau này
dường như là một sự nối dài Thư cho bé sơ
sinh.
Thư cho bé sơ sinh còn đặc trưng cho thơ
Đỗ Hồng Ngọc ở điểm này: tác giả khai thác nhiều khía cạnh tương
phản của đời sống: tiếng khóc và nụ cười, màu sáng và màu tối, thực
chất và nhãn hiệu, cái bé bỏng nhỏ nhoi và cuộc đời rộng lớn; nhưng
không đẩy nó vào thế đối lập mà đưa những tương phản đó thành những
hợp thể. Phải chăng đây cũng là dấu ấn của lý tưởng hoà hợp trong
thơ ông sau này, khi ông viết những bài thơ mang hơi thở thế sự hay
mang tâm thức thiền học.
Giữa hoàng hôn xưa
và Vòng quanh là một giai đoạn mới của thơ Đỗ Hồng Ngọc.
Quả là một nghịch lý, khi hồn thơ mở ra những không gian mới, nó lại
vẫn không thôi chịu sức hút của kỷ niệm. Cho nên, trong tuyển thơ
này, tác giả cố ý để lẫn lộn những bài thơ của những thời kỳ khác
nhau để bạn đọc cảm nhận được sự chan hoà của quá khứ và hiện tại,
của chất “nghiêm túc” và đôn hậu, lý tưởng và lãng mạn, của đau
thương và hy vọng.
Có thể nói Đỗ Hồng Ngọc là người nhặt thơ của chính mình đánh rơi
trên những ngả đường. Đọc
Giữa hoàng hôn xưa, ta tưởng chừng như nhà thơ để lại trái
tim mình nơi những góc phố, những bến thuyền của thị xã Phan Thiết
mà tuổi trẻ ông đã đi qua. Đến tập Vòng quanh, Đỗ Hồng Ngọc
nhặt tiếp một lẵng thơ từ những chân trời xa: dưới một vầng trăng
Boston, vào một muà tuyết Montréal hay trong màu nắng toả sáng vườn
Luxembourg – nơi từng in dấu chân bao văn nhân thi sĩ. Thì ra chuyến
đi nào cũng là một cuộc hành hương trên cõi đời này. Một lúc nào đó,
dường như Đỗ Hồng Ngọc ngộ ra rằng đâu có phải mình đang đi mà chính
là thời gian bước đi trong mình, bước đi qua những sợi tóc không còn
xanh, bước đi qua kỷ niệm, bước đi qua nhớ thương.
Và như vậy thời gian không còn gợi lên niềm sợ hãi. Ngày tháng cứ
trôi đi, đó là quyền lực của tạo hoá. Còn con người cũng biết cách
biến tình yêu và niềm tin của mình thành “quyền lực”. Tin rằng một
cái gì đã hiện hữu thì không thể nào là hư vô. Đó là niềm tin của
nhà thơ khi cầu nguyện cho hình ảnh thân yêu đã chia lìa bước ra từ
một phim trường hay hiện về trên màn hình vi tính.
Thật ra, ý hướng thiền học và cảm xúc tâm linh đã ươm mầm trong thơ
Đỗ Hồng Ngọc từ rất sớm. Nhưng phải qua những trải nghiệm nào đó về
cuộc đời, người ta mới có thể nghĩ sâu về Tâm kinh như tác giả
Nghĩ từ trái tim.
Cũng như phải đạt đến một sự hoà hợp nào đó giữa “ngã” và “tha”,
người ta mới viết được những câu thơ như Đỗ Hồng Ngọc:
Hội An còn ngái ngủ
Mái chùa ôm vầng trăng
Giật mình nghe tiếng chổi
Gà gáy vàng trong sương.
Tan biến giữa mênh mông, ta còn biết nhận ra mình ở
đâu? Chỉ là ở cái giật mình. Và hễ còn giật mình là còn có thơ.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG