HỌC MỖI NGÀY. Báo Công An TP Đà Nẵng ngày 16 tháng 9 có bài viết: Hé lộ nghi vấn đặc biệt về mộ vua Quang Trung ở Quảng Nam của T.Tân , V. Hoàng. Theo đó "Từ trước đến nay, việc mộ vua Quang Trung được chôn cất ở đâu vẫn là điều bí mật. Thế nhưng gần đây, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam phát hiện một tài liệu về chánh cung hoàng hậu của vua Quang Trung mang họ Phạm ở Quảng Nam, không phải ở Tuy Viễn (Bình Định) như sử sách lâu nay đề cập. Từ tình tiết này, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam cùng các cơ quan chức năng đã tiếp tục điều tra, nghiên cứu và dần hé lộ ra những tình tiết đặc biệt liên quan đến mộ vua Quang Trung."
Phát hiện lịch sử
Cuối tháng 8-2014, từ một nguồn thông tin đặc biệt, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam phát hiện một tài liệu viết bằng chữ Hán Nôm, có nội dung đề cập đến thân thế một phụ nữ được vua Quang Trung phong làm Chánh cung hoàng hậu. Tài liệu này là gia phả của một tộc Phạm tại một huyện của tỉnh Quảng Nam. Sau khi nhờ các chuyên gia Hán Nôm dịch nghĩa và đánh giá về độ tin cậy của tài liệu, đến nay toàn bộ nội dung của bộ gia phả đã được dịch ra tiếng Việt.
Theo đó, một cuốn gia phả và một cuốn ghi danh sách những người trong họ tộc để xướng tên trong lễ cúng tế được viết vào ngày 18 tháng 2 năm Bảo Đại thứ ba (1927). Trong cuốn gia phả và cuốn sớ xướng tên trong lễ cúng tế có đề cập đến một người tên là Phạm Văn Phước, thuộc đời thứ 4 của tộc Phạm này. Vào giai đoạn cuối thời chúa Nguyễn trấn thủ ở Đàng Trong, ông làm quan ở Xá sai ti, trấn Quảng Nam. Trong cuốn gia phả ghi rõ, hai người con gái của ông Phạm Văn Phước là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy và Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Sau khi bộ gia phả này được dịch, P.V đã cùng cán bộ Phòng PA83, Sở VH-TT&DL, Bảo tàng Quảng Nam tổ chức điền dã khảo cứu đến địa danh trong cuốn gia phả họ Phạm, quê hương của ông Phạm Văn Phước (địa danh xin được giấu-P.V). Thật bất ngờ, chúng tôi được dân làng kể về một câu chuyện hơn 200 năm trước. Theo dân làng, lúc hành quân từ Bình Định ra Phú Xuân (Huế), do mưa to gió lớn nên Nguyễn Huệ đã dừng chân lại nơi này.
Tại đây, Nguyễn Huệ đến ở tư gia của một viên quan họ Phạm có hai người con gái và đem lòng yêu thương người chị. Nguyễn Huệ đã đưa người chị ra Phú Xuân sinh sống, người em cũng được đi theo để hầu hạ chị. Sau một thời gian, người chị mất, người em được triều đình cho về quê và xây dựng một ngôi chùa để thờ tự chị mình. Sau khi mất, người em được chôn gần ngôi chùa. Do mộ người em được xây dựng khá đẹp và được thắp đèn dầu suốt đêm nên dân làng ai cũng cho rằng đó là mộ bà Phạm Đức Bá.
Từ trái qua: Trong gia phả họ Phạm thể hiện: Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy (hàng dọc thứ 2 tính từ phải qua); Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh (hàng dọc thứ 3 tính từ phải qua). Trong gia phả họ Phạm thể hiện Phạm Văn Phước, trước là Xá sai ti ở trấn Quảng Nam, từ năm Kỷ Dậu được phong tặng Đại tư không thiển quận công (dòng hàng dọc 2 và 3 bên phải sang).
Ngôi mộ nghi vấn
Lần theo câu chuyện, chúng tôi tìm được ngôi chùa trên. Đại đức Thích Văn Chánh, trụ trì chùa xác nhận, trong lịch sử ngôi chùa có ghi rõ, bà Phạm Đức Bá là người sáng lập chùa. Trước đây, chùa có giữ sắc phong thời Quang Trung ban hành việc xây dựng chùa và trong chùa có bài vị "Tiền nhân Phạm Đức Bá chi linh vị", nhưng do chiến tranh tài liệu đã bị thất lạc. Liên hệ thân thế của bà Phạm Thị Ngọc Dẫy, Phạm Thị Doanh với câu chuyện dân gian và ngôi mộ mang tên Phạm Đức Bá, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm trùng khớp với nhau. Trong gia phả ghi, người chị là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy, còn người em là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Trong câu chuyện dân gian, người chị được vua lấy làm vợ, người em cũng được đi theo vào cung để hầu hạ. Theo tìm hiểu trong sử sách, dưới triều vua Quang Trung, cung nữ được chia làm 2 cung, Tả cung và Hữu cung. Như vậy, khả năng người em trong câu chuyện dân gian chính là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh trong gia phả họ Phạm. Vì có chị là vợ vua nên người em được đặt thêm mỹ tự là "Đức Bá" theo điển lệ triều đình là giả thuyết rất thuyết phục.
Trong khi đó, ngôi mộ được cho là mộ bà Phạm Đức Bá hiện nay có nhiều đặc điểm rất đặc biệt so với các ngôi mộ cổ khác. Năm 1978, một số người đã dùng thuốc nổ để công phá ngôi mộ này nhằm tìm vàng bạc châu báu nhưng họ chỉ phá được lớp mu rùa trên mộ, còn phần đáy mộ thì không khai quật được. Hiện nay ngôi mộ vẫn còn và một phần thành mộ lộ thiên, có hoa văn thuộc triều Tây Sơn, nhìn bên ngoài có màu xám nhạt, có lẫn vôi sống, vỏ sò. Ngoài ngôi mộ trên, gần đó còn hai ngôi mộ khác cũng cùng thời Tây Sơn.
Theo ông Tôn Thất Hướng - Phó phòng nghiệp vụ Sở VH-TT&DL Quảng Nam cho biết, ở Việt Nam, mộ hợp chất thường có niên đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Hợp chất này là tổng hòa các chất như cát, mật đường, nhựa thực vật, vôi sò giã nhuyễn... Nó cứng hơn đá và "bất khả phân ly" không thể phá vỡ. Chính vì sự bền vững ấy nên chỉ có tầng lớp quý tộc mới được mộ táng bằng hợp chất. Và cũng vì được xây bằng hợp chất mà các đối tượng xấu không đào được phần dưới của ngôi mộ...
Với những tài liệu chúng tôi tiếp cận và hiện trạng ngôi mộ cổ hiện nay, cộng thêm câu chuyện trong dân gian, có cơ sở để nhận định rằng, Hoàng chánh hậu của vua Quang Trung là người Quảng Nam, như trong gia phả họ Phạm ghi rất rõ "Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy" chứ không phải Chánh cung Phạm Thị Liên (Tuy Viễn, Bình Định) như sử sách lâu nay đề cập.
Đặc biệt, nhiều tư liệu thu thập được cho thấy ngôi mộ trên có nhiều nghi vấn là mộ vua Quang Trung-Nguyễn Huệ chứ không phải mộ của Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh. Tuy nhiên, để có kết luận chính xác, rất cần các cơ quan chức năng vào cuộc để thẩm định. Và đây cũng là nguyện vọng chính đáng của người dân và dòng tộc Phạm ở địa phương.
T.Tân-V.Hoàng
Xem thêm:
Nguyễn Huệ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xem các bài có tên tương tự tại Nguyễn Huệ (định hướng) hoặc Quang Trung (định hướng)
Quang Trung Hoàng đế | ||
---|---|---|
Hoàng đế Việt Nam | ||
Tượng đài Quang Trung ở Quy Nhơn |
||
Hoàng đế nhà Tây Sơn | ||
Trị vì | 22 tháng 12 năm 1788 – 16 tháng 9 năm 1792 | |
Đăng quang | 22 tháng 12 năm 1788 | |
Tiền nhiệm | Thái Đức Hoàng đế | |
Kế nhiệm | Cảnh Thịnh Hoàng đế | |
Thông tin chung | ||
Thê thiếp | Chính Cung hoàng hậu Phạm Thị Liên Chính Cung hoàng hậu Bùi Thị Nhạn Bắc Cung hoàng hậu Lê Ngọc Hân Trần Thị Quỵ Nguyễn Thị Bích một vài người khác |
|
Hậu duệ |
|
|
Tên thật | Hồ Thơm Nguyễn Huệ |
|
Tước hiệu | Bắc Bình Vương, Hoàng đế | |
Niên hiệu | Quang Trung: 1788 - 1792 | |
Thụy hiệu | Vũ Hoàng Đế | |
Miếu hiệu | Tây Sơn Thái Tổ | |
Triều đại | Nhà Tây Sơn | |
Thân phụ | Nguyễn Phi Phúc | |
Sinh | 1753 Bình Định, Việt Nam |
|
Mất | 16 tháng 9 năm 1792 Phú Xuân, Việt Nam |
Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi Anh em Tây Sơn, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê. Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía nam, của Đại Thanh (Trung Quốc) từ phía bắc; đồng thời còn là người đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ xây dựng Đại Việt.[1]
Sau 20 năm liên tục chinh chiến và trị quốc, Nguyễn Huệ lâm bệnh và đột ngột qua đời ở tuổi 40. Sau cái chết của ông, nhà Tây Sơn suy yếu nhanh chóng. Những người kế thừa ông không đủ bản lĩnh để lãnh đạo Đại Việt, lâm vào mâu thuẫn nội bộ và thất bại trong việc tiếp tục chống lại kẻ thù của Tây Sơn. Cuộc đời hoạt động của Nguyễn Huệ được một số sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn.[2]
Cuộc đời ông được biết đến qua các bộ sử của nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn, các sử gia cận đại, hiện đại và cả trong văn học dân gian.
Mục lục
- 1 Thân thế
- 2 Tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn
- 3 Trận Rạch Gầm - Xoài Mút
- 4 Tiêu diệt chính quyền chúa Trịnh
- 5 Bất hòa với vua anh
- 6 Lưỡng đầu thọ địch
- 7 Chiến thắng Kỷ Dậu (1789)
- 8 Chính sách thời hậu chiến
- 9 Kế hoạch Nam tiến dở dang
- 10 Những giả thuyết về cái chết
- 11 An táng
- 12 Cuộc sống cá nhân
- 13 Nhận định
- 14 Ghi công từ hậu thế
- 15 Những di ngôn nổi tiếng
- 16 Hình tượng Nguyễn Huệ trong điện ảnh
- 17 Xem thêm
- 18 Chú giải
- 19 Chú thích và tham khảo
- 20 Đọc thêm
- 21 Liên kết ngoài
Thân thế
Có giả thuyết cho rằng tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, dòng dõi Hồ Quý Ly.[3] Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê - Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố (cụ nội) của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ.[4] Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam.[3][4][5]Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753. Ông còn có tên là Quang Bình (光平),[6] Văn Huệ (文惠)[7] hay Hồ Thơm. Sau này, người dân địa phương thường gọi ông là Đức ông Bình[8] hoặc Đức ông Tám.[3]
Về thứ tự của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ trong các anh em, các nguồn tài liệu ghi không thống nhất:
- Các sách Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam chính biên liệt truyện, Tây Sơn thuỷ mạt khảo đều thống nhất ngôi thứ trong ba anh em Tây Sơn đã khẳng định rằng: "Con trưởng là Nhạc, kế là Lữ, kế nữa là Huệ".
- Dân phủ Quy Nhơn xưa truyền lại rằng: Nguyễn Nhạc thuở đi buôn trầu nên gọi anh Hai Trầu; Nguyễn Huệ còn có tên là Thơm nên gọi là chú Ba Thơm; Nguyễn Lữ gọi là thầy Tư Lữ[a].
- Theo thư từ của các giáo sĩ phương Tây hoạt động ở Đại Việt khi đó như Labartette, Eyet và Varen thì Nguyễn Huệ là em của Nguyễn Lữ. Nguyễn Lữ được gọi là Đức Ông Bảy còn Nguyễn Huệ là Đức Ông Tám.
- Lê Trọng Hàm trong sách Minh đô sử lại cho rằng Hồ Phi Phúc sinh "Nhạc, Lữ đến hai cô con gái rồi đến Huệ".
Tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn
Tham gia khởi nghĩa
Theo Tây Sơn tiềm long lục của Nguyễn Bá Huân, một danh sĩ người Bình Định (1848-1899) sống thời nhà Nguyễn, thấy quân Tây Sơn đánh chiếm các huyện, thành, thôn ấp, tuần phủ Quy Nhơn của chúa Nguyễn là Nguyễn Khắc Tuyên cùng đề đốc Lý Trình đi đánh dẹp. Quân Khắc Tuyên đến Phù Ly gặp quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy. Hai bên giao chiến, Lý Trình bị Nguyễn Huệ chém chết, Khắc Tuyên bỏ chạy về Quy Nhơn.[8] Năm 1773, anh em Tây Sơn hạ được thành Quy Nhơn (kinh thành Đồ Bàn cũ của Chiêm Thành). Từ đó, quân Tây Sơn đánh ra các vùng lân cận và tới cuối năm 1773 đã kiểm soát từ Quy Nhơn đến Bình Thuận, làm suy yếu chính quyền chúa Nguyễn.
Tái chiếm Phú Yên
Tây Sơn lâm nguy
Không lâu sau khi làm chủ phần lớn khu vực Nam Trung Bộ, anh em Tây Sơn bắt đầu gặp khó khăn trước những diễn biến mới.Giữa năm 1774, chúa Nguyễn cử Tống Phúc Hiệp mang quân từ Gia Định theo hai đường thủy bộ ra đánh Nam Trung bộ, và nhanh chóng lấy lại được Bình Thuận, Diên Khánh và Bình Khang. Tây Sơn từ đó chỉ còn làm chủ từ Phú Yên ra Quảng Ngãi.
Nhân cơ hội chúa Nguyễn suy yếu, tháng 10 năm 1774, chúa Trịnh Sâm sai Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc dẫn 3 vạn quân[12] tiến đánh Đàng Trong. Quân Trịnh vượt sông Gianh đánh chiếm Phú Xuân. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và các quan phải chạy vào Quảng Nam, nhưng bị Nguyễn Nhạc mang quân hai đường thủy bộ tiến ra đánh, vội theo đường biển trốn vào Gia Định, để Nguyễn Phúc Dương ở lại. Tháng 2 năm 1775, quân Trịnh vượt đèo Hải Vân đã đụng độ với quân Tây Sơn cũng đang tiến ra để lùng bắt Phúc Dương. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn, sau khi đã bắt được Phúc Dương.
Lợi dụng Nguyễn Nhạc thua trận, Tống Phúc Hiệp từ Bình Khang tiến ra đánh Phú Yên, quân Tây Sơn thua trận phải co về Quy Nhơn. Phần lãnh thổ mà anh em Tây Sơn còn kiểm soát chỉ còn Quy Nhơn và Quảng Ngãi.
Tình thế của quân Tây Sơn lúc đó rất nguy ngập, nếu mang quân ra đương đầu với cả hai phía thì chắc chắn Tây Sơn sẽ bị tiêu diệt. Nguyễn Nhạc quyết định xin giảng hoà với chúa Trịnh để tập trung vào chiến trường phía nam, bèn sai người đến chỗ Hoàng Ngũ Phúc xin đầu hàng và làm tiên phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn. Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ Nguyễn nên nhân danh chúa Trịnh thuận cho Nguyễn Nhạc hàng, phong làm "Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết tướng quân". Dù thế, Hoàng Ngũ Phúc vẫn không cho lui quân, đóng sát địa giới Quảng Ngãi, có ý chờ nếu Tây Sơn bại trận sẽ tiến vào chiếm Quảng Ngãi và Quy Nhơn.[13]
Xuất quân thắng trận
Tạm yên phía bắc nhưng Tây Sơn vẫn còn ở vào tình thế nguy hiểm, chỉ có một lựa chọn là phải thắng trận để chiếm lại Phú Yên từ tay quân Nguyễn, nếu không sẽ bị quân Trịnh đánh từ phía sau.Trong tình thế các tướng đều bạc nhược do thua trận, Nguyễn Nhạc quyết định cử Nguyễn Huệ khi đó mới 23 tuổi, làm chủ tướng mang quân vào Nam. Để hỗ trợ cho Nguyễn Huệ, nhân nắm con bài Nguyễn Phúc Dương trong tay, Nguyễn Nhạc gả con gái cho Dương, rồi sai người vào Phú Yên điều đình với Tống Phúc Hiệp bàn việc lập Phúc Dương làm chúa và cùng đánh Trịnh. Việc đàm phán đến nửa chừng thì Nguyễn Huệ kéo quân tới đánh khiến Hiệp không kịp trở tay.[14] Nguyễn Huệ bắt sống Nguyễn Khoa Kiên, giết Nguyễn Văn Hiền, riêng Hiệp chạy thoát. Tướng của chúa Nguyễn ở Bình Khang là Bùi Công Kế mang quân ra cứu bị Nguyễn Huệ bắt sống. Tướng chúa Nguyễn khác là Tống Văn Khôi ở Khánh Hoà ra đánh cũng bị Nguyễn Huệ giết tại trận.
Hoàng Ngũ Phúc nhân lúc Tây Sơn mang quân vào Nam liền lấn tới đóng quân ở Châu Ổ thuộc Quảng Ngãi, nhưng sau khi nghe tin Nguyễn Huệ thắng trận không dám tiến nữa. Để tăng thêm thanh thế, Nguyễn Nhạc yêu cầu quận Việp phong chức cho em. Quận Việp phong Nguyễn Huệ làm "Tây Sơn hiệu tiền tướng quân". Ít lâu sau vì tuổi già sức yếu, quận Việp bỏ Quảng Nam lui về Phú Xuân rồi giao lại thành này cho các tướng dưới quyền, còn mình dẫn đại quân về Bắc.
Nhân lúc quân Trịnh rút khỏi Quảng Nam, các tướng cũ của họ Nguyễn lại nổi dậy chiếm nơi này. Nguyễn Nhạc bèn điều Nguyễn Huệ từ Phú Yên ra đánh tan quân Nguyễn, lấy lại Quảng Nam.
Chiến thắng Phú Yên là dấu ấn đầu tiên của Nguyễn Huệ trên con đường binh nghiệp của ông sau này. Từ đây ông trở thành chỗ dựa vững chắc cho nhà Tây Sơn.
Tiến công Gia Định
Những chiến dịch tấn công Gia Định của Tây Sơn đều là những chiến dịch lớn. Ngoại trừ lần đầu tiên mang tính đánh tập kích do Nguyễn Lữ chỉ huy, những chiến dịch sau đều có quy mô lớn và có vai trò tham gia then chốt của Nguyễn Huệ. Oanh liệt hơn cả là trận đánh năm 1777.Nguyễn Huệ ra Bắc để lại tướng người Hoa là Lý Tài giữ thành Phú Yên. Tài bất mãn[15] vì mất chức chánh tướng về tay Nguyễn Huệ nên nghe theo lời dụ của Tống Phúc Hiệp, sang hàng chúa Nguyễn. Để chia thế quân Nguyễn, đầu năm 1776, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ mang quân theo đường thuỷ vào đánh Gia Định. Nguyễn Lữ liền thu hết kho tàng của chúa Nguyễn rồi rút về Quy Nhơn. Tháng 10 năm 1776, Nguyễn Phúc Dương bỏ trốn từ Quy Nhơn về Gia Định, gọi Lý Tài làm vây cánh. Đỗ Thanh Nhân không thừa nhận một hàng tướng từ Tây Sơn thế là ông nhục mạ Lý Tài, bị nhục Lý Tài chiêu mộ lính rồi đánh nhau với Đỗ Thanh Nhân.[16] Nhân thua bỏ Gia Định về Ba Giòng. Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương làm Tân chính vương, còn Nguyễn Phúc Thuần làm Thái thượng vương, Lý Tài trở thành Bảo giá Đại tướng quân.[17]
Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Nhạc lại cử Nguyễn Huệ làm tướng mang thủy quân vào đánh Gia Định.[17] Lý Tài thua trận bỏ chạy khỏi thành và đưa 2 chúa Nguyễn về Hóc Môn. Sau Lý Tài rút khỏi Hóc Môn về Ba Giồng[18] bị Đỗ Thanh Nhân đón đường giết chết. Nguyễn Phúc Thuần theo Đỗ Thanh Nhân giữ Tranh Giang, Nguyễn Phúc Dương theo tướng Trương Phúc Thận giữ Tài Phụ. Nguyễn Huệ chia đường đánh bại cả hai cánh quân Nguyễn. Nguyễn Phúc Thuần và Đỗ Thanh Nhân phải bỏ chạy về Cần Thơ cầu viện Tổng binh Hà Tiên là Mạc Thiên Tứ, còn Nguyễn Phúc Dương bỏ chạy về Ba Việt (Bến Tre).
Nguyễn Huệ đánh bại Mạc Thiên Tứ. Nguyễn Phúc Thuần sai Đỗ Thanh Nhân lẻn ra Bình Thuận cầu cứu Chu Văn Tiếp, Trần Văn Thức. Nguyễn Nhạc nhân lúc Nguyễn Huệ thắng trận ở Nam Bộ cũng cử binh đánh Phú Yên, Bình Thuận. Trần Văn Thức chưa ra khỏi Bình Thuận đã bị quân Tây Sơn giết chết, Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Nhạc chiếm lại Phú Yên đến Bình Thuận.
Tháng 9 năm 1777, Nguyễn Huệ mang quân bao vây tấn công Ba Việt, bắt sống Nguyễn Phúc Dương và toàn bộ quân tướng. Dương và 18 tướng tuỳ tùng bị đưa về Gia Định xử tử (vào tháng 10 năm 1777).[19] Nguyễn Phúc Thuần bại trận bỏ Cần Thơ sang Long Xuyên, định chờ Mạc Thiên Tứ lấy tàu để chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh[20] nhưng bị quân Tây Sơn đuổi đến nơi, bắt được Nguyễn Phúc Thuần mang về Gia Định xử tử tháng 10 năm 1777. Nguyễn Ánh, Đỗ Thanh Nhân và Mạc Thiên Tứ trốn thoát mỗi người một nơi.
Như vậy trong vòng 7 tháng, Nguyễn Huệ đánh thắng và bắt giết được cả 2 chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn từ chỗ bị dồn về Quy Nhơn đã chủ động giành lại không những Nam Trung Bộ mà cả Nam Bộ, tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn.
Sau khi Nguyễn Huệ rút đại quân về, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế (1778), niên hiệu là Thái Đức, ông phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân.[21] Các tướng họ Nguyễn lại lập Nguyễn Ánh làm chúa, chiếm lại Gia Định. Được các lực lượng phương Tây như Pháp, Bồ Đào Nha giúp sức,[22] Nguyễn Ánh lại mạnh lên. Thái Đức hoàng đế sai tướng vào đánh nhưng lại bị thua và mất thêm Bình Thuận.
Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thuỷ bộ Nam tiến, phá tan quân Nguyễn, giết chết cai cơ người Pháp là Manuel (Mạn Hoè). Nguyễn Ánh bỏ chạy về Hậu Giang. Vua Thái Đức chiếm lại Nam bộ, sai người giao hảo với Chân Lạp (Campuchia) và đề nghị hợp tác đánh Nguyễn Ánh. Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu viện Xiêm La của Nguyễn Ánh và suýt bắt được ông.[23] Nguyễn Ánh trốn ra đảo Phú Quốc.
Anh em Tây Sơn rút quân về Bắc, Chu Văn Tiếp lại từ Bình Thuận mang quân vào đánh chiếm được Gia Định và đón Nguyễn Ánh trở về. Tháng 2 năm 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân Nam tiến. Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước[24] vẫn bị quân Tây Sơn phá tan và Ánh buộc phải bỏ chạy về Đồng Tuyên. Nguyễn Huệ đánh phá Đồng Tuyên, Nguyễn Ánh lại bỏ chạy ra Hà Tiên rồi trốn ra đảo Phú Quốc. Tháng 8 năm 1783, quân Tây Sơn truy kích, Nguyễn Ánh chạy một vòng ra các đảo Cổ Long, Cổ Cốt rồi lại quay về Phú Quốc. Quân Tây Sơn vây đánh nhưng lúc đó có bão biển, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra, sau 7 ngày đêm lênh đênh trên biển, Nguyễn Ánh thừa cơ lại trốn thoát, chạy hẳn ra đảo Thổ Chu cách xa đất liền rồi đầu năm sau tự mình sang Xiêm cầu viện.
Trận Rạch Gầm - Xoài Mút
Sau khi vào Gia Định, Nguyễn Huệ đánh vài trận nhưng không thắng có ý rút binh nhưng gặp dịp một tướng của Nguyễn Ánh là Lê Xuân Giác về hàng bày mưu phục binh.[26] Mưu hợp với Nguyễn Huệ nên ông nghe theo liền cho bố trí trận địa và nhử quân Xiêm đến gần Rạch Gầm và Xoài Mút[26] (ở phía trên Mỹ Tho) để đánh một trận lớn tiêu diệt quân Xiêm.
Đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 (đêm 9 rạng 10 tháng 12 năm Giáp Thìn), quân Xiêm lợi dụng thủy triều xuôi theo dòng sông để tấn công Mỹ Tho nhằm phá vỡ đội thuyền phòng thủ của Tây Sơn. Quân Tây Sơn giả thua rút dần về hướng Mỹ Tho, nhử đối phương lọt vào trận địa mai phục đoạn Rạch Gầm-Xoài Mút. Quân Xiêm quen mùi thắng nên tiến vào trận mai phục của Tây Sơn,[26] khi quân Xiêm lọt vào trận mai phục, bất ngờ quân Tây Sơn sử dụng pháo bắn uy hiếp dữ dội ở cù lao Thới Sơn và bờ sông Tiền, khóa chặt hai đầu, dồn quân Xiêm vào thế "tiến thoái lưỡng nan". Bên cạnh đó, hỏa hổ ở hai bên bờ nã đạn tới tấp vào đội hình làm quân Xiêm rối loạn, tinh thần hoang mang rồi bỏ chạy. Cùng lúc đó, một đội thuyền cảm tử chở đầy rơm và những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào thuyền quân Xiêm làm cho số bị chìm, số bị cháy. Trong khi đó, cánh quân bộ Xiêm La ngay từ đầu đã bị quân Tây Sơn chặn đánh không cho cứu viện.
Một trận quyết chiến diễn ra trong không đầy một ngày đã tiêu diệt gần như hoàn toàn 2 vạn quân Xiêm,[25] số còn sống sót chỉ được vài nghìn người[26] chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Cánh quân bộ nghe tin thất trận cũng tan rã và tháo chạy. Nhị vương Xiêm La Chiêu Tăng, Chiêu Sương chạy theo đường bộ về Xiêm; còn Nguyễn Ánh phải chạy ra đảo Thổ Chu rồi về Cổ Cốt được Cai cơ Trung đón sang Xiêm.[26]
Sau trận đánh này, quân Xiêm khiếp đảm trước sức mạnh của Tây Sơn, "sợ Tây Sơn như sợ cọp".[26] Đánh dẹp xong, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để đô đốc là Đặng Văn Trấn ở lại trấn đất Gia Định.
Tiêu diệt chính quyền chúa Trịnh
Đánh chiếm Phú Xuân
Tại Bắc Hà, năm 1782, Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm qua đời, thế tử Trịnh Cán được lập làm Điện Đô vương. Phe của người con lớn[g] là Trịnh Tông làm binh biến, giết quan phụ chính là quận Huy Hoàng Tố Lý (cháu lão tướng Hoàng Ngũ Phúc) đưa Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam vương (1782-1786). Một tướng theo phe quận Huy là Nguyễn Hữu Chỉnh không hợp tác với Trịnh Tông, bỏ chạy vào Nam hàng Tây Sơn và được Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm.[27] Bắc Hà ngày một suy yếu. Nguyễn Nhạc quyết định đánh chiếm Phú Xuân (đất cũ của chúa Nguyễn). Năm 1786, Nguyễn Huệ được cử làm tổng chỉ huy cùng Nguyễn Lữ đánh ra Bắc.Về phía Trịnh, sau khi nhận hàng Nguyễn Nhạc, lão tướng Hoàng Ngũ Phúc rút đại quân về Bắc (1775), để lại Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể giữ thành Phú Xuân. Sau đó không lâu, Hoàng Ngũ Phúc qua đời.
Nguyễn Huệ lập kế lung lạc chủ tướng Phạm Ngô Cầu. Nguyễn Hữu Chỉnh lại dùng kế ly gián Phạm Ngô Cầu và phó tướng Hoàng Đình Thể. Quân Tây Sơn bất ngờ đánh úp thành Phú Xuân. Phạm Ngô Cầu bỏ mặc Hoàng Đình Thể chết trận và quyết định dâng thành hàng Tây Sơn.[28] Trong khi đó thì Nguyễn Lữ đem quân thủy đánh xong các đồn từ sông Gianh trở vào (xem thêm bài về nhà Tây Sơn và Nguyễn Lữ).
Tiến ra Thăng Long
Với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", Nguyễn Huệ sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm tiên phong Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng tan vỡ, các danh tướng phần nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ đã khiếp sợ, đến khi nghe quân Tây Sơn kéo ra đa số bỏ trốn. Chúa Trịnh bỏ thành Thăng Long chạy và bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh Tông đã tự sát.
Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển Tông. Tuy về danh nghĩa Nguyễn Huệ trao trả quyền chính lại cho vua Lê và nhận phong Nguyên súy Dực chính phù vận Uy quốc công, nhưng trong thực tế ông nắm toàn bộ quyền chính ở Bắc Hà. Do sự sắp xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông gả công chúa Lê Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.
Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Thể theo ý kiến của công chúa Ngọc Hân thiên về lập hoàng thân Lê Duy Cận (anh Ngọc Hân), Nguyễn Huệ muốn tôn lập Duy Cận làm vua.[29] Tuy vậy, do áp lực của tôn thất nhà Lê đối với Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đành thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, đó là vua Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam.
Bất hòa với vua anh
- Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Qui Nhơn.
- Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định.
- Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất Thuận Hóa trở ra đèo Hải Vân.
Nguyễn Nhạc tuyển một đội lính hộ tống đi ra Bắc và đòi Nguyễn Huệ về. Dù chính Nguyễn Huệ đã ra tận ngoài cửa ô tiếp đón,[33] cả hai cùng đi triều kiến vua Lê rồi về Nam[31] nhưng Nguyễn Nhạc vẫn chưa bằng lòng.
Tới Phú Xuân, Nguyễn Huệ ở lại còn Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc đưa ra nhiều đòi hỏi tỏ uy quyền mà Nguyễn Huệ từ chối: bắt Nguyễn Huệ đi chầu, nộp chiến lợi phẩm và nộp đất Quảng Nam..[33] Nguyễn Huệ tỏ ra chống đối Nguyễn Nhạc và binh lính lại rất trung thành với ông.[32] Nguyễn Nhạc phẫn chí, giết công thần Nguyễn Thung, hiếp vợ Nguyễn Huệ.[32][34]
Nguyễn Huệ chiếm nốt kho vàng của Tây Sơn ở Quy Nhơn để vận hành chiến tranh, thế là chiến tranh xảy ra.[35] Nguyễn Huệ đánh nhau với Nguyễn Nhạc trong vài tháng đầu năm 1787, ông tổng động viên chừng 6 vạn tới 10 vạn quân.[35] Họ đánh nhau dữ dội và sau đó Nguyễn Huệ tiến đến vây thành Quy Nhơn, đắp thành đất, bắn đại bác vào thành.
Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải vào đền thờ cha mẹ khóc rồi kêu Đặng Văn Chân từ Gia Định về cứu nhưng quân Đặng Văn Chân tới nơi lại bị Nguyễn Huệ đánh tan, buộc Đặng Văn Chân phải tới hàng.[36] Tuy quân của Nguyễn Huệ trong các cuộc công thành thương vong đến phân nửa[36] nhưng tình thế buộc Nguyễn Nhạc phải lên mặt thành khóc xin em "Nỡ lòng nào mà nồi da xáo thịt như thế".[37] Nguyễn Huệ nể tình anh em, thôi hãm thành và bằng lòng giảng hòa với vua anh, rồi rút về Thuận Hóa[37]
Lưỡng đầu thọ địch
Ở Bắc Hà, sau khi quân Tây Sơn rút đi, các thế lực của chúa Trịnh trỗi dậy lập Trịnh Bồng lên ngôi vương, tái lập chính quyền chúa Trịnh. Vua Lê Chiêu Thống mời Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn ở Nghệ An ra dẹp Trịnh Bồng. Nguyễn Hữu Chỉnh nhanh chóng đánh tan quân Trịnh, đốt phủ chúa, Trịnh Bồng bỏ đi mất tích. Nguyễn Hữu Chỉnh nhân lúc Tây Sơn có biến bèn chuyên quyền, muốn chống lại Tây Sơn.
Trong khi đó tại miền Nam, giữa năm 1787, Nguyễn Ánh từ Xiêm quay trở lại Gia Định. Nguyễn Lữ bỏ Phạm Văn Tham một mình chiến đấu với quân Nguyễn và tự ý rút về Quy Nhơn (xem thêm bài Nguyễn Lữ).
Trước tình hình Nam, Bắc đều có biến, Nguyễn Huệ quyết định giải quyết vấn đề phía bắc trước. Ông phái Vũ Văn Nhậm, con rể của Nguyễn Nhạc, ra tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Tuy nhiên, tình hình vẫn không sáng sủa, đến lượt Vũ Văn Nhậm chuyên quyền và có ý chống Nguyễn Huệ. Tháng 4 năm 1788, Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô lưu vong, Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần thứ hai nhằm giết Vũ Văn Nhậm. Ông đã tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, mời các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Đại tư mã Ngô Văn Sở đảm đương công việc. Sau khi đã lập Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân vì tình hình chiến trường Nam Bộ rất gay go.
Phạm Văn Tham không chống nổi các tướng của Nguyễn Ánh, thành Gia Định thất thủ và sau đó ông liên tiếp thua trận. Nguyễn Nhạc tuổi cao lắm bệnh, bất lực không thể cứu ứng Nam Bộ, xin nhường ngôi hoàng đế, đất đai và binh quyền cho Nguyễn Huệ và thỉnh cầu ông vào cứu. Để chuẩn bị Nam tiến, Nguyễn Huệ tổng động viên binh lính ở Thuận Hoá, ngày đêm tập luyện. Tuy nhiên, khi ông chưa kịp tiến vào Nam thì lại nghe tin nhà Thanh nghe lời Lê Chiêu Thống cầu viện, sai Tôn Sĩ Nghị mang 29 vạn quân và dân công [38][39] vượt ải Nam Quan vào Đại Việt. Các tướng giữ Bắc Hà của ông lui về giữ Biện Sơn cố thủ.
Nguyễn Huệ đứng trước hai lựa chọn: Nam tiến hoặc Bắc tiến. Cả hai mặt trận đều nước sôi lửa bỏng và cần đến ông, tuy nhiên, nếu ông quá sa vào một mặt trận thì mặt trận kia sẽ vỡ. Mặc dù nhận thức được quân Mãn Thanh phía bắc là nguy cơ lớn hơn và gấp gáp hơn nhưng Nguyễn Huệ không thể đánh địch theo chiến thuật trường kỳ như triều đại nhà Lý, nhà Trần trước đó đã làm để chống quân phương Bắc. Vì vậy ông quyết định chọn cách đánh thần tốc để sớm giải quyết chiến trường miền Bắc.
Sau khi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, ngay hôm sau ông cất đại quân ra Bắc. Ngay trước khi đi, ông sai một bầy tôi tin cẩn là Diệm cầm thư của ông vào Nam dặn tướng Phạm Văn Tham cố phòng thủ chờ tiếp viện.[40]
Chiến thắng Kỷ Dậu (1789)
Thần tốc bắc tiến
Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm,[41][42] Phan Huy Ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn cố thủ chờ lệnh.[43]
Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Để lấy danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên tới 10 vạn,[44][45] tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra còn có một đội tượng binh gồm 200 voi chiến. Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.
Tôn Sĩ Nghị coi thường quân Tây Sơn, sau nghe lời các tướng của Chiêu Thống thì có lo đôi phần, hẹn mồng 6 Tết ra quân đánh Tây Sơn.
Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung hẹn ba quân ngày mồng 7 Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn Tết ở Thăng Long.
Quang Trung chia quân làm 5 đạo. Một cánh do đô đốc Long chỉ huy từ làng Nhân Mục tập kích đồn Khương Thượng và phía tây Thăng Long. Cánh đô đốc Bảo tiến đánh các đồn phía nam Thăng Long. Trung quân do đích thân Quang Trung chỉ huy, phối hợp với đô đốc Bảo đánh diệt các đồn phía nam Thăng Long. Cánh đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc theo đường biển ra Bắc, chặn đường lui của địch ở phía bắc sông Nhị Hà và huyện Phượng Nhãn.
Đêm 30 tháng Chạp âm lịch, quân Tây Sơn đánh diệt đồn Gián Khẩu của các tướng Lê Chiêu Thống. Sau đó Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn lính bỏ mạng. Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn,[46] có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa.
Đô đốc Long tiến vào đánh phá quân địch phòng thủ ở Tây Long. Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết.[47] Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy về. Lê Chiêu Thống hớt hải chạy theo Nghị thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Trung Quốc ở biên giới dắt nhau chạy làm cho suốt vài chục dặm không có người.[48][49] Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết, Quang Trung tiến vào thành Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân.
Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó trong một bài thơ[cần dẫn nguồn]:
“ |
|
” |
Giai thoại về việc ra quân
Tương truyền,[50] trước khi ra quân đánh quân Thanh, tại lễ đăng quang ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ lập kế để động viên quân sĩ.Sau lúc làm lễ, Quang Trung sai mang đến cái mâm, trên để các đồng tiền, có phủ vải điều, rồi tuyên bố với quân sĩ:
- Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng tiền này đều sấp, thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Nhược bằng, có đồng ngửa, thì đó là đại sự của chúng ta có điều trắc trở.
Kỳ thực, Nguyễn Huệ đã sai đúc 200 đồng tiền có cả 2 mặt đều là mặt sấp.
Chính sách thời hậu chiến
Bang giao với nhà Thanh
Từ trước khi giao chiến với quân Thanh, Quang Trung đã tính đến chiến lược ngoại giao với nhà Thanh. Theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, Tây Sơn nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc. Vua Càn Long nhà Thanh đã cho sứ giả sang Đại Việt phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của Càn Long.
Tháng 1 năm 1790, theo phương kế của Ngô Thì Nhậm,[51] Quang Trung sai người đóng giả làm mình cầm đầu đoàn sứ gồm 150 người sang Yên Kinh (Bắc Kinh sau này) triều kiến Càn Long. Các tài liệu ghi khác nhau về nhân vật đóng giả Quang Trung. Theo Hoàng Lê nhất thống chí và Việt Nam Sử Lược, người đóng Nguyễn Huệ tên là Phạm Công Trị,[52] cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu; theo Đại Nam chính biên liệt truyện thì người đó là tướng Nguyễn Quang Thực người Nghệ An. Mục đích của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, bị Quang Trung mua chuộc đứng sau lưng đoàn sứ bộ,[53] nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải là Nguyễn Huệ, nhưng vì ngại gây hấn nên không nói ra.[51] Vua Càn Long đón tiếp trọng thể đoàn sứ bộ An Nam. Theo "Đại Thanh thực lục", nhà Thanh chi phí cho sứ đoàn mỗi ngày hết 4.000 lạng bạc (tổng cộng lên đến 800.000 tính cho tới khi sứ đoàn về).[54] Càn Long làm thơ, như sau:
“ |
|
” |
“ |
|
” |
Theo các nhà nghiên cứu,[51] phái bộ này đã có ảnh hưởng tới thái độ của nhà Thanh đối với Lê Duy Kỳ. Sang năm 1791, nhà Thanh sai phân tán các quan lại cũ của nhà Lê đi các nơi để tách biệt không liên lạc được với nhau và cô lập Lê Duy Kỳ; bản thân Duy Kỳ bị giam lỏng ở "Tây An Nam dinh" tại Yên Kinh và sau ốm mà chết yểu. Nhà Tây Sơn chính thức nhận được sự công nhận của nhà Thanh.
Quang Trung không chỉ muốn hòa hoãn với Càn Long mà còn muốn xuất quân đánh nhà Thanh. Trước khi tính chuyện đánh Thanh, nhà vua cho quấy rối nội địa Trung Quốc bằng cách lợi dụng đảng "Thiên Địa Hội" khiêu khích người Thanh. Các biên thần nhà Thanh như Phúc Khang An (mới thay Tôn Sĩ Nghị) tuy biết rõ Tây Sơn có bí mật nhúng tay, nhưng cũng chịu nhịn cho qua chuyện.[53] Ông cũng cầu hôn với công chúa Thanh và xin đất Lưỡng Quảng để thử ý vua Thanh.[57] Dù vậy ý định này không kịp trở thành hiện thực do cái chết đột ngột của ông.[57]
Sắp đặt đơn vị hành chính
- Xứ Đông (Hải Dương)
- Xứ Bắc (Kinh Bắc)
- Xứ Đoài (Sơn Tây)
- Xứ Yên Quảng
- Xứ Lạng (Lạng Sơn)
- Xứ Thái (Thái Nguyên)
- Xứ Tuyên (Tuyên Quang)
- Xứ Hưng (Hưng Hóa)
- Xứ Nghệ (Nghệ An và Hà Tĩnh)
- Sơn Nam Thượng (Hà Đông và Hà Nam)
- Sơn Nam Hạ (Nam Định và Thái Bình)
- Thanh Hóa ngoại (Ninh Bình)
- Thanh Hóa nội (Thanh Hóa).
Trong các trấn trên thì các trấn Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên và Yên Quảng là ngoại trấn; các trấn Thanh Hóa ngoại, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Hải Dương và Phụng Thiên là nội trấn.[58]
Mỗi xứ (trấn) chia làm nhiều phủ, mỗi phủ chia làm nhiều huyện, mỗi huyện chia làm nhiều tổng, mỗi tổng chia làm nhiều xã, mỗi xã lại chia nhiều thôn. Thành Thăng Long gồm 1 phủ, 2 huyện, 18 phường.[58]
Tổ chức bộ máy
Bộ máy hành chính thời Quang Trung gồm:Tam công, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại Tư đồ, Đại Tư khấu, Đại Tư mã, Đại Tư không, Đại Tư Lệ, Thái úy, Ngự úy, Đại Tổng quản, Đại Đô hộ, Đại đô đốc, Đô đốc, Nội hầu, Hộ giá, Điểm kiểm, Chỉ huy sứ, Đô ty, Đô úy, Trung úy, Vệ Úy, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung Thư lệnh, Phụng Chính, Thị Trung đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Lục Bộ Thượng thư, Tả - Hữu đồng nghi, Tả - Hữu phụng nghi, Thị Lang, Tư vụ, Hàn Lâm...[59][60]
Mỗi trấn đặt một trấn thủ về hàng võ và một hiệp trấn về hàng văn.[60] Mỗi huyện đặt một văn phân tri, một võ phân suất, một tả quản lý và một hữu quản lý.[60] Công việc của quan văn là trưng đốc binh lương, xét xử từ tụng.[59] Phận sự của quan võ là coi quản và thao diễn quân lính từ Đạo đến Cơ, từ Cơ đến Đội.[59] Trong các xã, thôn thì có xã trưởng, thôn trưởng. Hàng tổng thì đặt Tổng trưởng (như chức Chánh Tổng về sau) để giữ việc hành chính trong một tổng.[59] Ông đồng thời cũng cho soạn một bộ luật tên là "Hình luật thư", nhưng chưa xong thì ông đột ngột mất nên mãi không hoàn thành.[61]
Thu hút nhân tài
Để phát triển quốc gia, Quang Trung rất chú trọng thu dụng các nhân tài từng phục vụ nhà Lê. Ông ban "Chiếu cầu hiền" có đoạn:“ |
|
” |
—Quang Trung
|
Giáo dục
Theo sách Tây Sơn lược thuật, ông chọn một quan văn "5 ngày một lần vào cấm cung để giảng giải kinh sách".[62] Ngoài ra, Quang Trung quan tâm đưa việc học đến tận thôn xã. Trong "Chiếu lập học" ông lệnh cho các xã::[62]"Phải chọn Nho sĩ bản địa có học thức, có hạnh kiểm đặt làm thầy dạy, giảng tập cho học trò".
Tôn giáo
Quang Trung có một chính sách tôn giáo rất tự do và rộng rãi:[63] dù là người đề cao Nho giáo nhưng ông vẫn bảo đảm hoạt động cho các tôn giáo khác như Phật giáo và các tín ngưỡng khác. Về Công giáo, các giáo sĩ tự do hoạt động, truyền đạo, xây dựng nhà thờ.[63] Nhưng đồng thời ông cũng thi hành chính sách bài trừ mê tín dị đoan rất mạnh, chấn chỉnh lại việc tu hành: nhiều chùa ở các làng có mà người tu hành lạm dụng để truyền bá mê tín dị đoan bị đập bỏ để xây duy nhất một ngôi chùa ở huyện cấp trên,[64] đồng thời những người tu hành không đạo đức, những kẻ lưu manh, lười biếng đều phải hoàn tục.[63]Kinh tế
Vua Quang Trung không đi theo con đường "trọng nông ức thương" của tư tưởng Nho Giáo, ông có chủ trương đề cao thương nghiệp và mở rộng quan hệ buôn bán giữa Đại Việt với nước ngoài.[65] Năm 1790, ông thương thuyết với nhà Thanh để mở một thương điếm tại Nam Ninh (Quảng Tây) mua bán hàng hoá giữa hai nước.[65] Ông khuyến khích giao thương giữa các thuyền của thương thuyền nước ngoài và các thương thuyền của Đại Việt.[65] Quang Trung có một chính sách thuế đơn giản với thuế ruộng là chính: ruộng chia ra làm ba hạng để đánh thuế nhất đẳng điền (150 bát thóc), nhị đẳng điền (80 bát thóc), tam đẳng điền (50 bát thóc). Lại thu tiền thập vật, mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khố mỗi mẫu 50 đồng. Ruộng tư điền cũng đánh thuế: nhất đẳng điền mỗi mẫu nộp 40 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 30 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 20 bát. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công điền, còn tiền khoán khố thì mỗi mẫu phải nộp 30 đồng[66] Các loại thuế khác như thuế điệu, thuế nhân đinh được giảm để giảm bớt gánh nặng của dân chúng và phòng ngừa tham nhũng.[65]
Quản lý nhân khẩu
Dưới triều Quang Trung, việc quản lý nhân khẩu bắt đầu được thực hiện. Năm 1790, ông cho lập sổ theo dõi nhân khẩu (hay hộ khẩu).[54] Người dân được phân 4 hạng theo lứa tuổi:[54] 9-17 tuổi là hạng "vị cập cách"; 18-55 tuổi là hạng "tráng"; 55-60 tuổi là hạng "lão"; 60 tuổi trở lên là hạng "lão nhiêu".[64] Ông còn cho làm thẻ bài "Thiên hạ đại tín" bằng gỗ có khắc họ tên,[67] quê quán của người mang không phân biệt giàu sang nghèo hèn.[54][67]Kế hoạch Nam tiến dở dang
Kế hoạch Nam tiến
Mặc dù đã đại thắng quân Mãn Thanh nhưng sau đó Quang Trung vẫn phải lo ổn định tình hình Bắc Hà do tàn dư của nhà Lê còn sót lại. Trong khi đó, Nguyễn Ánh được người Pháp hỗ trợ kéo ra đánh Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, quân của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc liên tiếp bại trận và mất mấy thành này. Cho tới năm 1791, Nguyễn Nhạc chỉ còn cai quản Quy Nhơn, Phú Yên và Quảng Ngãi.Sau khi ổn định tình hình Bắc Hà, Quang Trung quyết tâm tiêu diệt Nguyễn Ánh. Ông ra sức trấn an Nguyễn Nhạc và nhân dân trong vùng do Nguyễn Nhạc cai quản để chuẩn bị Nam tiến. Theo nhiều nhà nghiên cứu, việc Quang Trung sai Vũ Văn Dũng đi "xin" Càn Long đất Quảng Đông, Quảng Tây thực ra chỉ là một thủ thuật về chính trị. Quang Trung không có dụng tâm lấy đất Trung Quốc vì ông biết thực lực không thể, hay ít ra là chưa thể làm lúc đó. Hơn nữa, ông thu dụng quân lục lâm "Tàu ô", sai đánh phá biên giới Trung Quốc cốt để nhà Thanh bị cuốn vào hoạt động ngoại giao và chống giặc cướp để cho ông có thời gian hỗ trợ vua anh dồn lực lượng vào chiến trường miền Nam mà thôi.[68] Để chuẩn bị phối hợp với Quang Trung, năm 1792, Nguyễn Nhạc đóng nhiều tàu thuyền đóng ở cửa Thi Nại để Nam tiến. Nhưng lúc đó là mùa gió nồm chỉ thuận cho quân Nam ra, phải đợi đến mùa đông mới thuận gió cho quân Tây Sơn vào. Nguyễn Ánh thừa dịp cùng quân Pháp, Bồ Đào Nha đánh úp cửa Thi Nại, đốt cháy nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Tây Sơn vương không phòng bị, lại phải thu quân về Quy Nhơn.
Để báo thù trận đó, Quang Trung dự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn 20[69]-30 vạn[70] quân thuỷ bộ, chia làm ba đường:
- Nguyễn Nhạc và quân "Tàu ô" (hải tặc Trung Hoa) cùng theo đường bộ từ Phú Yên vào đánh Gia Định
- Quân bộ của Quang Trung từ Phú Xuân đi thẳng qua lãnh thổ Vạn Tượng tới Nam Vang (Chân Lạp), từ đó cùng quân Chân Lạp kéo về Gia Định, bao bọc đường chạy của Nguyễn Ánh không cho sang Xiêm
- Quân thuỷ của Quang Trung sẽ tiến vào đón lõng tận Hà Tiên đổ bộ lên đất liền để ngăn Nguyễn Ánh chạy ra biển.
Lo việc hậu thế
Chính các giáo sĩ Pháp giúp Nguyễn Ánh lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Nguyễn Ánh khó lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Tuy nhiên trong khi chờ gió đổi chiều thì cái chết đột ngột vì lo lắng cho cuộc viễn chinh[71] của Quang Trung vào tháng 9 dương lịch năm 1792 khiến kế hoạch Nam tiến này không bao giờ trở thành hiện thực.Tương truyền, vào một buổi chiều đầu thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra Phượng Hoàng Trung Đô. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua đã căn dặn Trần Quang Diệu và các quần thần:[72]
“ | Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử[f] tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định là quốc thù, mà Thái Đức thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô[k] để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn thân!" | ” |
Những giả thuyết về cái chết
Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết về cái chết của vua Quang Trung được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức thuyết phục.Áo thêu của Càn Long
Theo Hoàng Lê nhất thống chí,[74] khi Quang Trung giả sang Yên Kinh gặp Càn Long, được Càn Long tặng cho chiếc áo, có thêu 7 chữ:- Xa tâm chiết trục, đa điền thử (車心折軸多田鼠)
- Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng
Giả thiết này ý nói rằng: Nguyễn Huệ chết do áo bị yểm bùa.
Thực ra Nguyễn Huệ bị bệnh mà chết
Bệnh
Sách Ngụy Tây liệt truyện, một tài liệu chính sử của Sử quán triều Nguyễn ghi giải thích cái chết của vua Quang Trung như sau:Sách Tây Sơn thực lục cũng có ghi "Huệ mắc bệnh nặng, chữa không khỏi...". Và sau khi Quang Trung mất, vào tháng một năm Càn Long thứ 58 (1793), Quách Thế Huân cũng báo cáo với Càn Long: "Quang Trung đã chết vì bệnh".[55]
- "Một hôm, về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm, tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng: "Ông cha người sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân Chúa Nguyễn, sao phạm đến lăng tẩm...". Rồi lấy gậy đánh vào trán Quang Trung, mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự lâu lắm... Từ đó, bệnh chuyển nặng..."
Cũng một giả thuyết được truyền lại nhiều nhất là một buổi chiều thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não.[55][75]
Một giáo sĩ tên Longer, có mặt ở Đàng Ngoài vào những thời điểm này, đã viết trong một bức thư đề ngày 21 tháng 12 năm 1792 là vua Quang Trung chết vì bệnh, nhưng không rõ là bệnh gì.[55]
Các nhà nghiên cứu về sau gạt bỏ các chi tiết mê tín trong Ngụy Tây liệt truyện thì họ cho rằng Quang Trung đã bị một cơn tăng huyết áp đột ngột.[55]
Bác sĩ Bùi Minh Đức qua khảo cứu các nguồn tư liệu lịch sử, kết luận rằng Nguyễn Huệ "Xuất huyết não dưới màng nhện; nguyên nhân tử vong: do viêm phổi sặc"[76]
An táng
Viếng Quang Trung
Thi hài Quang Trung được táng ngay tại Phú Xuân, tại một cung điện của ông tên là Đan Dương[c]. Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, tức là vua Cảnh Thịnh, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong.Đô đốc Vũ Văn Dũng đang đi sứ nhà Thanh ở Bắc Kinh, nghe tin Quang Trung mất liền làm bài thơ viếng như sau:
- Bố y phân tích ngũ niên trung
- Mai cố thi vi tự bất đồng
- Thiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷ
- Bất y Đường Tống thuyết anh hùng
- Dịch:
- Năm năm dấy nghiệp tự thân nông
- Thời trước thời sau khó sánh cùng
- Trời để vua ta thêm chục tuổi
- Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng.[77]
Lăng mộ bị phá
Thời Cảnh Thịnh, triều đình Tây Sơn sinh ra lục đục. Nguyễn Ánh nhân thời cơ đó kéo ra đánh bại nhà Tây Sơn. Mười năm sau ngày Quang Trung qua đời, nhà Tây Sơn sụp đổ hoàn toàn (xem thêm bài về nhà Tây Sơn).Để trả thù, Nguyễn Ánh sai đào mộ Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc, tán hài cốt thành bột nhồi thuốc súng bắn và bỏ xương sọ vào vò, giam trong ngục tối. Người đời thương tiếc nhà Tây Sơn gọi là "Ông Vò".
Nơi đặt lăng mộ của Quang Trung cũng bị san phẳng, không cho để lại dấu tích, nên sau này có một số nhà nghiên cứu đã dày công tra cứu, khảo sát, tìm tòi song không thể xác định được mộ vua Quang Trung ở địa điểm nào[78]
Khảo sát trong thời gian gần đây của các nhà nghiên cứu đã tìm ra bài thơ Kiến Quang Trung linh cữu (Nhìn thấy linh cữu vua Quang Trung) của nhà thơ Lê Triệu (1771-1846), người sống dưới thời Tây Sơn và thời Nguyễn. Bài thơ nói về cảm xúc của tác giả khi đứng trước nơi từng là lăng mộ của Quang Trung, chỉ sau mấy năm bị Nguyễn Ánh khai quật (theo các nhà nghiên cứu là năm 1801[79] hay 1802[80]):
“ |
|
” |
“ | ” |
Ông Vò
Trong vòng 20 năm từ 1802 - 1821, đầu lâu của các vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Trung và Quang Toản) bị bỏ vào 3 cái vò, giam ở nhà Đồ Ngoại,[81] tức là Võ Khố sau này[k]Từ năm 1822 - 1885, các vò bị giam vào Khám đường, ở phía tây bắc kinh thành Huế, khoảng giữa cửa chính Tây và An Hòa.[81] Ba chiếc vò bị xiềng và giam riêng, ngăn cách nhau, ngoài có niêm phong, hàng tháng có đoàn của triều Nguyễn xuống kiểm tra. Ba chiếc vò được các tù nhân tôn kính gọi là "Ông Vò", còn những người gác ngục gọi là "chúa ngụy".[81] Những người sống ở gần Khám đường đều tỏ ra kính cẩn ba Ông Vò, họ thường cúng bái và coi như thần hộ mệnh.[81] Năm 1885, kinh thành Huế biến động bởi chiến tranh giữa phe chủ chiến của nhà Nguyễn với người Pháp, ba chiếc vò bị mất tích. Các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu về vấn đề này nhưng chưa có kết luận cuối cùng.[82]
Theo Báo Đất Việt thì vào đêm 22 rạng 23 tháng năm Ất Dậu (1885), phòng thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi cùng hoàng gia phải rời khỏi phòng thành, quân Pháp vào thành. Lúc đó, có người mang 3 vò chạy trốn. Riêng một vò (sọ vua Quang Trung) được một ông họ Phan, người ở gần Cầu Ngói đã theo hào, lạch, sông đưa về Cầu ngói Thanh Toàn.
Cuộc sống cá nhân
Ngoại hình và tính cách
Trong "Tây sơn thuật lược" (西山述略), người ta miêu tả Nguyễn Huệ "Tóc Huệ quăn, mặt mụn đầy, có một con mắt nhỏ, nhưng mà cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu...". Sử gia Tạ Chí Đại Trường bình luận "tóc quăn", "mặt mụn", "mắt nhỏ" là dấu vết thân xác; còn "chuyện tròng mắt có ánh sáng phát ra, ban đêm soi sáng cả chỗ ngồi là cảm tưởng của người nhìn khiếp sợ trước oai vũ của "Thượng công""[83].Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí miêu tả anh em Nguyễn Huệ "trò chuyện, kẻ hỏi người đáp cực kỳ ôn tồn (?) y như anh em các nhà thường dân" khác hẳn kiểu bệ vệ, tôn nghiêm của triều đình Lê - Trịnh[84]. Ngoài ra, Hoàng Lê Nhất Thống Chí còn miêu tả Nguyễn Huệ là một người dễ gần, hay đùa với binh lính. Trong cuộc sống tình cảm cá nhân, giáo sĩ Labartette mô tả Nguyễn Huệ là người mềm yếu khi mà công chúa Lê Ngọc Hân thường xuyên ""mếu khóc" vuốt ve tự ái đấng trượng phu" khi muốn đòi hỏi gì đó[84]; hay Nguyễn Huệ phát cuồng vì có người vợ mất ở Phú Xuân. Chính tấm lòng say mê đó đem đổ vào cuộc đời Nguyễn Huệ, vào triều chính, ở chỗ chiến trường trở thành một sức quyến rũ lôi cuốn người khác[84]. Về chiến trận, cũng sách này miêu tả Nguyễn Huệ "...là bực lão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam thật là xuất thần quỷ nhập. Không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn cả sấm sét...[84]"
Nguyễn Đình Giản, thuộc quan của Nguyễn Hữu Chỉnh, khi bàn về Nguyễn Huệ nhận định "Bắc Bình vương [Nguyễn Huệ] là một tay anh hùng"[85]. Nguyễn Đình Giản và Phạm Đình Dư, quan nhà Lê, nhận định "Bắc Bình vương là người rất quyệt, hay dùng trí thuật lao lung người khác, trong lúc bàn luận, khi xuống lại nâng lên người ta không biết đâu mà dò". Vị quan khác Trần Công Xán nhận định "[Nguyễn Huệ là] người huyền bí khó lường"[85].
Ngay chính sử nhà Nguyễn cũng phải mô tả "Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, giảo, kiệt, thiện chiến? ai cũng phải sợ... Bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy dốc lòng vâng mệnh"[86].
Gia quyến
Vợ
Các nguồn tài liệu, chủ yếu là Đại Nam chính biên liệt truyện của nhà Nguyễn về gia quyến của Nguyễn Huệ, đã ghi nhận ông có ít nhất 6 người vợ trong đó có ba hoàng hậu là:- Chính cung hoàng hậu
- Phạm Thị Liên
Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một thầy thuốc người phương Tây tên là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất trước đó, vào ngày 29 tháng 3 năm 1791.
Trong một bức thư viết ngày 17 tháng 7 năm 1791, giáo sĩ Sécrard đã kể: "Chánh hậu của Tiên vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc bà một cách sầu thảm. Ông đã cử hành tang lễ vô cùng linh đình trang trọng cho bà vào cuối tháng sáu. Dân Nam Hà đồn khắp nơi rằng ông đã băng hà vì quá đau buồn".
Hoàng hậu họ Phạm đã gắn bó với Nguyễn Huệ trong những chặng đường chinh Nam phạt Bắc nên được Nguyễn Huệ rất mực quý trọng yêu thương. Mộ chôn ở dưới chân núi Kim Phụng, phía tây thành phố Huế.
Bà được đặt thụy là Nhân Cung Ðoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ hoàng hậu.
- Bùi Thị Nhạn
Theo giả thuyết này, chính bà Bùi Thị Nhạn mới là mẹ của Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thiệu và Nguyễn Quang Khanh; còn bà Phạm Thị Liên lại là mẹ của Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Bàn (nên Quang Thuỳ lớn hơn Quang Toản). Ngoài ra, bà còn là mẹ của 2 công chúa - trong đó có 1 người lấy Nguyễn Văn Trị. Bà tự sát năm 1802 khi Cảnh Thịnh thua trận và bà không muốn lọt vào tay quân Nguyễn Ánh.
Cũng theo giả thuyết này, bà lấy Nguyễn Huệ khi ông chưa làm hoàng đế; còn bà Phạm Thị Liên đã mất sớm vì bệnh khi Quang Thuỳ còn nhỏ.
Như vậy, theo giả thuyết này, hầu hết những người con của bà Phạm Thị Liên lại là con bà Bùi Thị Nhạn, còn bà Phạm Thị Liên lại là mẹ Quang Thuỳ.
- Bắc cung hoàng hậu
Ngọc Hân đã có với Quang Trung hai người con, một trai và một gái: hoàng tử tên là Nguyễn Quang Đức và công chúa là Nguyễn Thị Ngọc Bảo. Lúc Ngọc Hân lấy Nguyễn Huệ, bà 16 tuổi còn Nguyễn Huệ đã 33 và cũng đã có nhiều đời vợ. Sau khi lên ngôi vua, năm 1789, Nguyễn Huệ đã phong bà làm Bắc cung hoàng hậu. Ngọc Hân mất năm Kỷ Mùi (1799). Hai người con của bà sau này đều bị triều đình nhà Nguyễn giết hại.[8]
- Các bà vợ khác
- Bà mẹ của Nguyễn Quang Thuỳ Có ý kiến cho rằng bà mẹ của Nguyễn Quang Thuỳ này chính là một nàng hầu. Quang Thuỳ lớn hơn Quang Toản, nhưng không phải là con của Phạm hoàng hậu và cũng không phải là con của Ngọc Hân công chúa. Vua Càn Long (nhà Thanh) từng lầm tưởng Quang Thuỳ là con trưởng của vua Quang Trung khi Thuỳ trong đoàn sứ bộ sang chúc thọ bát tuần vua Thanh (1790).[8]
- Bà phi họ Lê người Quảng Ngãi: Bà này có một con trai với vua Quang Trung, cuộc đời của bà đến nay vẫn không rõ, vị hoàng tử con bà bị Nguyễn Ánh giết năm 1801.[8]
- Bà Trần Thị Quỵ người Quảng Nam: Không rõ bà Trần Thị Quỵ được Nguyễn Huệ chọn làm thứ phi năm nào và có con với ông hay không. Tương truyền, trong những ngày Tây Sơn thất thế, bà bị quân của Nguyễn Ánh bắt được đưa lên bãi cát Kim Bồng chém đầu rồi thả trôi sông. Thi hài của bà được nhân dân bí mật vớt lên khâm liệm và mai táng cẩn thận ở cánh đồng thuộc xứ Trà Quân, làng Thanh Đông (Quảng Nam – Đà Nẵng).[8]
- Bà Nguyễn Thị Bích người Quảng Trị: Bà là con gái út thứ 16 của viên quan nhỏ vào mạt kỳ thời Chúa Nguyễn ở Phú Xuân. Bà cũng có một con trai với vua Quang Trung. Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, bà trốn về Vĩnh Ân (nay thuộc xã Cát Hanh huyện Phù Cát tỉnh Bình Định) để nương thân, lúc chết được chôn ở gò Thỏ, Vĩnh Ân.[8]
Các con
Theo các nhà nghiên cứu, số con của vua Quang Trung khoảng 20 người[8][87]- Nguyễn Quang Toản (sau là Cảnh Thịnh đế - Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
- Nguyễn Quang Bàn (Con bà Phạm Thị Liên)
- Nguyễn Quang Thiệu (Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
- 2 công chúa, trong đó có 1 người lấy Nguyễn Văn Trị (Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
- Nguyễn Quang Khanh (con bà Bùi Thị Nhạn)
- Nguyễn Quang Đức (Con bà Lê Ngọc Hân)
- Công chúa Nguyễn Bảo Ngọc (Con bà Lê Ngọc Hân)
- 1 người con trai con bà phi họ Lê
- 1 người con trai con bà phi Nguyễn Thị Bích
- Nguyễn Quang Thuỳ (Con bà Phạm Thị Liên hoặc 1 nàng hầu)
- Nguyễn Quang Cương (không rõ mẹ)
- Nguyễn Quang Tự (không rõ mẹ)
- Nguyễn Quang Điện (không rõ mẹ)
- Nguyễn Thất (không rõ mẹ)
- Nguyễn Quang Duy: làm chức Thái tể thời Cảnh Thịnh (không rõ mẹ)
- 5 công chúa khác cùng bị bắt với vợ Nguyễn Văn Trị, nhưng sử không nêu rõ có những người nào chính là người trong số công chúa khác con bà Phạm Thị Liên, Bùi Thị Nhạn và con bà Ngọc Hân hay không.
Nhận định
Tác giả Tạ Trí Đại Trường tổng kết rằng Nguyễn Huệ đã nhận được lời khen ngợi của không chỉ những người bầy tôi dưới quyền mà ngay cả của "đám thù nghịch từng chịu điên đảo vì ông"[88]Chiến tích
Quang Trung Nguyễn Huệ là hoàng đế bách chiến bách thắng, lập nhiều chiến tích quân sự nhất trong lịch sử Việt Nam. Cả cuộc đời binh nghiệp của ông, dù dưới danh hiệu Long Nhương tướng quân[e], Bắc Bình vương hay hoàng đế Quang Trung, ông đều lập công trạng hiển hách, chưa từng thất bại một trận nào.[53] Do những chiến tích vang dội, Nguyễn Huệ được các giáo sĩ Tây phương so sánh với Alexandros Đại đế[89] và Attila.[90]Chính sử của nhà Nguyễn thừa nhận:
“ | "...quân Xiêm (từ sau khi thua trận Rạch Gầm - Xoài Mút) tuy ngoài miệng thì nói khoác nhưng trong bụng thì sợ Nguyễn Huệ như sợ cọp." | ” |
“ | "Tây Sơn rất mạnh; quân đội của Nguyễn Huệ nếu không thiện chiến cũng rất đông; Nguyễn Huệ có voi để kéo pháo, và hơn nữa, Nguyễn Huệ có rất nhiều thuyền chiến, chiến hạm và tàu thuyền để chở quân đội. Nguyễn Huệ có nghị lực, có tài năng..."[91] | ” |
- Đánh Gia Định, bắt hai chúa Nguyễn (1777).
- Chiến thắng 5 vạn quân Xiêm ở Rạch Gầm, Xoài Mút (1785)
- Hạ thành Phú Xuân (1786)
- Tiến đánh Thăng Long (1786)
- Cuộc chiến với 30 vạn quân nhà Thanh (1789): Trận Ngọc Hồi, Trận Đống Đa
Chính trị
Đối nội, đối ngoại
Đối với việc Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc Hà đánh họ Trịnh chuyên quyền, ông dùng khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh" để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Bắc Hà. Khi diệt được họ Trịnh, ông vẫn tôn thờ vua Lê. Việc làm đó được sử gia Trần Trọng Kim nhận định "Ấy là đã có sức mạnh mà đã biết làm việc nghĩa vậy"[92].Cũng theo sử gia Trần Trọng Kim: "vì vua nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc lòng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông miếu tiền triều; như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc".[92]
Ngay sau khi đại phá quân Thanh ở trận Ngọc Hồi - Đống Đa, vua Quang Trung tìm cách xóa bỏ thù hằn bằng việc chiêu hàng, nuôi dưỡng hàng vạn tù binh nhà Thanh và thu dọn, cúng tế chiêu hồn quân Thanh;[93] thực thi chính sách hòa giải với cường quốc phương Bắc và triều cống, xin phong vương. Bằng một kế sách ngoại giao khôn khéo, mua chuộc được các cận thần nhà Thanh (Phúc Khang An, Hoà Thân...), Nguyễn Huệ đã được vua Thanh chấp nhận cầu phong để nhà Tây Sơn chính thức thay thế nhà Lê làm chủ Đại Việt.[94]
Quyền biến
Biết Nguyễn Hữu Chỉnh là người dễ thay lòng đổi dạ nhưng Nguyễn Huệ vẫn tận dụng tài năng, mưu lược và sự thông thạo đất Bắc Hà của Nguyễn Hữu Chỉnh để đánh đổ chúa Trịnh. Đánh xong họ Trịnh, ông không thẳng tay giết Nguyễn Hữu Chỉnh mà mượn tay các thế lực thân họ Trịnh cũ (những người đó oán Chỉnh) để giết Nguyễn Hữu Chỉnh bằng việc cùng vua anh Nguyễn Nhạc âm thầm rút quân về nam, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại.
Tới khi Nguyễn Hữu Chỉnh lẽo đẽo chạy theo kịp, Nguyễn Huệ không thể bỏ mặc bèn lưu lại ở Nghệ An cho trấn thủ, chờ biến cố. Lúc Nguyễn Hữu Chỉnh "Phù Lê" đánh được Trịnh Bồng, ra mặt chống Tây Sơn với việc sai người vào Phú Xuân đòi ông giao trả đất Nghệ An, ông mới công khai cử binh đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh bị diệt nhanh chóng.
Vũ Văn Nhậm tiếp quản Thăng Long từ tay Nguyễn Hữu Chỉnh cũng nảy ý xưng hùng - chuyên quyền và tự ý đúc ấn riêng. Lúc đó Nguyễn Huệ đã điều bớt binh cho Vũ Văn Nhậm và phải đề phòng mặt Nam, nên không thể dàn quân đi đánh Vũ Văn Nhậm như đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông lặng lẽ đi gấp ra Bắc và lập tức trừ khử Vũ Văn Nhậm.
Hai viên tướng tài có ý đồ chống lại bị loại trừ với những lý do chính đáng bằng những cách thức không giống nhau, khó lường trước. Các tướng bên dưới như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lập tức được đôn lên thay trọng trách. Việc Nguyễn Huệ khiển tướng điều binh khiến các tướng lĩnh tâm phục và từ đó không còn ai mang ý đồ cát cứ.
Cai trị
Không chỉ là một viên tướng thiện chiến, Quang Trung còn là một nhà cai trị tài ba. Ông giỏi chiến thuật quân sự, giỏi về chiến lược ngoại giao và lại biết thu dụng nhân tài để xây dựng đất nước. Trong ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Huệ không chỉ trội hơn về tài năng quân sự mà ngay cả trong việc trị nước, ông cũng tỏ ra là người xuất sắc nhất. Sau là một vài lời nhận xét về công cuộc cai trị của Quang Trung:“ | "Ông không chỉ là cầm quân mà còn là nhà cai trị rất giỏi... Đồn binh vững vàng khắp đường sông, cửa biển; kỷ luật nghiêm minh, đồng thời lại rất nhân từ với nhân dân..." | ” |
—Legrand de la Liraye trong tác phẩm Notes historiques sur la nation annamite (Bút ký lịch sử về dân tộc An Nam)[95]
|
“ | "sáng đẹp hơn ngũ đế, lòng nhân hiếu cảm động đến trời... với các sĩ phu thì cuốn vào máy, thu vào lồng, tìm trong hang núi, hỏi chốn thôn quê, hái chẳng sót loài cỏ mọn". | ” |
—Ngô Trọng Khuê, một đại thần cũ Nhà Hậu Lê, trước chối từ lời mời của Quang Trung[96]
|
“ | Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn[d] là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra đất Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là đối với một xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật khác thường. | ” |
Dù sau này nhà Nguyễn tìm nhiều cách để bôi nhọ và xoá bỏ những chứng tích liên quan tới Nguyễn Huệ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung, nhưng tên tuổi ông không hề bị mai một. Người Việt Nam ghi nhận ông là người anh hùng áo vải dân tộc, là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà.
Ghi công từ hậu thế
Phòng tuyến Tam Điệp ở thị xã Tam Điệp tỉnh Ninh Bình là một quần thể các di tích lịch sử ghi dấu cuộc chiến tranh giữa nghĩa quân Tây Sơn và nhà Thanh. Quần thể di tích này thuộc khu vực dãy núi Tam Điệp, là ranh giới tự nhiên hiểm yếu ngăn cách hai miền Trung - Bắc. Đây là nơi hội quân một thời oai hùng của Quang Trung với những cái tên đèo Ba Dội, núi Gióng Than, đồi Hầu Vua, đồi Chuông, đền Cao Sơn, đền Quán Cháo, chùa Dâu… Những đồn luỹ Tam Điệp, Quèn Rẻ, Quèn Thờ, Luỹ Chẹn, Luỹ Đệm, Luỹ Đền…, ải Quang Trung, Kẽm Đó – cổ họng hiểm yếu nhất Tam Điệp… Luỹ Quèn Thờ là vùng đồi núi, rừng rú hoang vu, năm xưa khi thân chinh ra Bắc, vua Quang Trung đã lên thắp hương xin kế phá giặc ở đây. Tương truyền ngôi đền thờ thần Cao Sơn trước đó ở giữa lưng chừng núi. Vua Quang Trung đã được thần báo mộng và nhắc nhở xây đền lên đỉnh núi nếu thắng trận. Sau khi thắng trận vị vua này đã cho di dời Đền lên đỉnh núi. Đền Quán Cháo là ngôi đền gắn với sự tích tiên nữ dâng cháo cho quân lính Tây Sơn trước giờ xung trận. Đền thờ Quang Trung được xây dựng ở thành cổ Tam Điệp ngay trong thời nhà Nguyễn. Quảng trường, tượng đài Hoàng đế Quang Trung được nhân dân Ninh Bình xây dựng tại xã Quang Sơn, thị xã Tam Điệp.
Tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định cũng có tượng đài Hoàng Đế Quang Trung, đặt tại Bảo Tàng Quang Trung.
Cái tên Nguyễn Huệ hoặc niên hiệu Quang Trung của ông được đặt cho các đường phố ở các thành phố lớn Việt Nam (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vinh, Phan Thiết...). Ở Hà Nội, phố Quang Trung được đặt trên di chỉ cũ của phủ chúa Trịnh là nơi ông từng đóng quân khi tiến vào Thăng Long năm 1786 và cũng là nơi cử hành hôn lễ giữa ông và công chúa Lê Ngọc Hân.[99] Ở Thành phố Hồ Chí Minh, có một ngôi miếu nhỏ của ông tọa lạc tại Quận 12, gần Công viên phần mềm Quang Trung. Ở Phan Thiết, đường Gia Long sau năm 1975 được đổi thành đường Nguyễn Huệ.
Những di ngôn nổi tiếng
“ |
|
” |
—(Chiếu xuất quân)
|
“ |
|
” |
—(Trả lời về việc bia tiến sĩ ở Văn Miếu Thăng Long bị đổ)
|
Hình tượng Nguyễn Huệ trong điện ảnh
Bộ phim dã sử - võ thuật đầu tiên của điện ảnh Việt Nam về Vua Quang Trung là bộ phim "Tây Sơn hào kiệt" được thực hiện bởi hãng phim Lý Huỳnh phối hợp cùng Hãng phim Thanh Niên hợp tác sản xuất với sự góp mặt của các diễn viên: Thùy Lâm, Nghệ sĩ nhân dân Thế Anh, Nghệ sĩ nhân dân Đoàn Dũng, Nghệ sĩ ưu tú Lý Huỳnh, Công Hậu, Mộng Vân,... và vai Nguyễn Huệ được giao cho nam diễn viên Lý Hùng.[100][101] Phim được khởi quay từ ngày 7 tháng 3 năm 2009.[102][103]Bộ phim dài 90 phút, dựng lại một quãng thời gian trong cuộc đời của Nguyễn Huệ - Quang Trung. Đó là thời gian người anh hùng Nguyễn Huệ chạm mặt và bắt đầu mối tình với Công chúa Lê Ngọc Hân, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phò Lê - diệt Trịnh và phim kết lại với hình ảnh chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử khi 10 vạn quân Tây Sơn đánh tan 20 vạn quân lính nhà Thanh, tiến đến giải phóng Thăng Long vào mùa xuân Kỷ Dậu 1789.[104] Bộ phim đã được đầu tư trên 12 tỉ đồng, thực hiện ròng rã trong ba năm và là phim đầu tiên của Hãng phim Lý Huỳnh được làm hậu kỳ tại Hồng Kông. Ngoài ra phim còn có sự tham gia của 200 võ sư (vovinam, võ cổ truyền), 50 con voi ở Buôn Đôn, 38 tuấn mã từ trường đua, may 2.000 bộ trang phục cho bốn sắc lính, đúc 10 cây súng thần công và cảnh quay đông nhất có trên 3.000 diễn viên. Phim được chiếu ra mắt ngày 22 tháng 4 năm 2010 và chính thức công chiếu toàn quốc vào ngày 30 tháng 4.[105]
Xem thêm
- Nhà Tây Sơn
- Nguyễn Nhạc
- Nguyễn Lữ
- Nguyễn Ánh
- Trận Rạch Gầm - Xoài Mút
- Chiến thắng Kỷ dậu (1789)
- Núi Bân
Chú giải
• a)^Vì có thuở Nguyễn Lữ đi tu theo đạo Hồi Bani (Islam Bani) một hệ tôn giáo của người Chàm cổ.
• b)^Sau này Dương bị Nguyễn Huệ xử tử.
• c)^Vị trí hiện nay của cung Đan Dương (hay Đan Lăng) là không rõ ràng, xin xem chi tiết tại Việc an táng Quang Trung.
• d)^Trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim gọi nhà Tây Sơn là nhà Nguyễn Tây Sơn vì các vua Tây Sơn họ Nguyễn và để phân biệt với nhà Nguyễn của Nguyễn Ánh
• e)^Chức do Nguyễn Nhạc phong
• g)^Trịnh Tông phạm tội bị truất làm con út
• h)^Con rể của Nguyễn Nhạc
• i)^ Trong nguyên bản "Khuân" là một chữ Nôm, rất ít dùng, viết theo tên gọi của địa phương. Khuân Sơn, theo sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, tập I (Nxb Thuận Hoá, Huế 1992) chép: "Núi Khuân Sơn ở phía nam huyện Phong Điền, có tên nữa là Thượng Sơn, vì hình núi tròn như vựa thóc, thượng lưu sông Phong Điền chảy về phía tây, có một con đường theo ven núi chạy về phía bắc, đi theo về phía tây có thể đến đất người Man Thượng", Bài thơ chữ Hán "Nhìn thấy linh cữu Quang Trung" mới tìm thấy Hồng Phi - Hương Nao, VUSTA 00:00:00 Ngày 27/05/2006, theo Xưa & Nay, số 245, 10/2005, trang 6-8
• j)^Doanh Tần tức Tần Thuỷ Hoàng; ý tác giả ví Nguyễn Ánh tàn bạo như Tần Thuỷ Hoàng
• k)^ Vinh ngày nay
• b)^Sau này Dương bị Nguyễn Huệ xử tử.
• c)^Vị trí hiện nay của cung Đan Dương (hay Đan Lăng) là không rõ ràng, xin xem chi tiết tại Việc an táng Quang Trung.
• d)^Trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim gọi nhà Tây Sơn là nhà Nguyễn Tây Sơn vì các vua Tây Sơn họ Nguyễn và để phân biệt với nhà Nguyễn của Nguyễn Ánh
• e)^Chức do Nguyễn Nhạc phong
• g)^Trịnh Tông phạm tội bị truất làm con út
• h)^Con rể của Nguyễn Nhạc
• i)^ Trong nguyên bản "Khuân" là một chữ Nôm, rất ít dùng, viết theo tên gọi của địa phương. Khuân Sơn, theo sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, tập I (Nxb Thuận Hoá, Huế 1992) chép: "Núi Khuân Sơn ở phía nam huyện Phong Điền, có tên nữa là Thượng Sơn, vì hình núi tròn như vựa thóc, thượng lưu sông Phong Điền chảy về phía tây, có một con đường theo ven núi chạy về phía bắc, đi theo về phía tây có thể đến đất người Man Thượng", Bài thơ chữ Hán "Nhìn thấy linh cữu Quang Trung" mới tìm thấy Hồng Phi - Hương Nao, VUSTA 00:00:00 Ngày 27/05/2006, theo Xưa & Nay, số 245, 10/2005, trang 6-8
• j)^Doanh Tần tức Tần Thuỷ Hoàng; ý tác giả ví Nguyễn Ánh tàn bạo như Tần Thuỷ Hoàng
• k)^ Vinh ngày nay
Chú thích và tham khảo
- ^ Kamm 1996, tr. 125
- ^ Nguyễn Phan Quang (2006), sách đã dẫn, tr 208 - 213
- ^ a ă â Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 49
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 102
- ^ Xem Trung chi II họ Hồ Quỳnh Đôi và Tiểu chi Cụ Án, Trung chi 5
- ^ Việt Nam sử lược. Phần IV Tự Chủ Thời Đại Thời Kỳ Nam Bắc Phân Tranh (1528 - 1802) trang 153. Trần Trọng Kim, Trung tâm Học liệu xuất bản. Bản lưu Viện Việt học
- ^ Đại Việt sử ký tục biên, Quyển XXII, Hiển Tông Vĩnh hoàng đế
- ^ a ă â b c d đ e “Sự nghiệp Tây Sơn trên đất Bình Định”. Địa chí lịch sử Bình Định. Sở Khoa Học và Công Nghệ Bình Định. Bản gốc lưu trữ 4 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Đỗ Bang 2006, tr. 11
- ^ Yến Phi 1995
- ^ Largo 2002, tr. 104
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 2001, tr. 930
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 40
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 42
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 44-45
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 88
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 89
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 90
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 91
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 54
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 92-93
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 65
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 70
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 77
- ^ a ă â Nguyễn Phan Quang 2005, tr. 82
- ^ a ă â b c d Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 125
- ^ Ngô gia văn phái 1987, tr. 99 (t. 1)
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 119-120
- ^ Ngô gia văn phái 1987, tr. 140 (t. 1)
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 123
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 122
- ^ a ă â Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 146-147
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 145
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 145
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 148
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 149
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 124
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 188-189
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 165
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 217
- ^ Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Văn học, 1984, tập 2, trang 156-161
- ^ Nhiều tác giả, Ngô Thì Nhậm con người và sự nghiệp, ty văn hóa thông tin Hà Tây, 1974, trang 59-64
- ^ Bang giao tập, sách chép tay của thư viện Hán Nôm
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 220
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 168-170
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 236: nguyên chỉ có 12 đống, tới giữa thế kỷ 19, do đào đất làm đường, mở chợ lại nhặt được nhiều xác nữa nên tập trung thành gò thứ 13. Tới sau này chỉ còn lại 2 đống, một là đống đa gần đền Trung Liệt, một nữa là đống thiêng trong khu lăng mộ Hoàng Cao Khải
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 238
- ^ Ngô gia văn phái 1987, tr. 190 (t. 2)
- ^ Tạ Chí Đại Trường 2007, tr. 197
- ^ Đỗ Viết Lăng. “Kỳ mưu của Quang Trung”. Báo Bình Định. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2006.
- ^ a ă â Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 317
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 136
- ^ a ă â Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 270
- ^ a ă â b Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 273
- ^ a ă â b c Lê Văn Quý (2001). “Bí mật quanh cái chết của vua Quang Trung”. Địa chí lịch sử Bình Định. Thư Viện Bình Định. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2008.
- ^ Nhiều tác giả 2007, tr. 36
- ^ a ă â Trần Trọng Kim 1971, tr. 143
- ^ a ă â b Nguyễn Phan Quang 2006, tr. 309
- ^ a ă â b Nguyễn Phan Quang 2006, tr. 309-310
- ^ a ă â Trần Trọng Kim 1971, tr. 141
- ^ Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 276
- ^ a ă â b Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 274-275
- ^ a ă â Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 275-276
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 142
- ^ a ă â b Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 274
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 158
- ^ a ă Xuân Duy 2008
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 322
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 323
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 258
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 261
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 276
- ^ Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 269
- ^ a ă Ngô gia văn phái 1987, tr. 208 (t. 2)
- ^ “Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792)”. Vietsciences. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2008.
- ^ Nguyên nhân cái chết của Nguyễn Huệ
- ^ Nguyễn Đắc Xuân (1986), Hương Giang cố sự, Tủ sách sông Hương
- ^ Bảo Huy (17 tháng 1 năm 2006). “Những bí ẩn về lăng mộ Vua Quang Trung sắp được giải mã ?”. Báo Bình Định. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Phan Duy Kha (CAND) (26 tháng 3 năm 2006). “Mộ Quang Trung: Miệng "chén ngọc" hay cái huyệt yểm?”. Việt Nam Net. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Viết Hiền (11 tháng 11 năm 2005). “"Kiến Quang Trung linh cữu" - một tư liệu lịch sử quý”. Báo Bình Định. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ a ă â b Đỗ Bang 2005, tr. 185-186
- ^ Đỗ Bang 2005, tr. 187-189
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 271
- ^ a ă â b Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 271-272
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 272
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 273
- ^ a ă “Bùi Thị Nhạn”. Báo Bình Định. 21 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1971, tr. 312
- ^ Nhiều tác giả 2007, tr. 103
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 171
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 186
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 153
- ^ Nhiều tác giả 2006, tr. 43
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 156
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 82-83
- ^ Thế Văn (Cập nhật 11:41 ngày 21-02-2007). “Quang Trung Nguyễn Huệ trọng sĩ, cầu hiền”. Báo Nhân Dân. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2008.
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 140
- ^ Trần Ngọc Kha (3 tháng 7 năm 2007). “Nhớ một thời "Hà Nội trong mắt ai"”. Hà Nội Mới Online. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Theo Phố và đường Hà Nội - Nguyễn Vinh Phúc, NXB Giao thông vận tải, 2002
- ^ Thùy Ân (5 tháng 3 năm 2010). “"Tây Sơn hào kiệt": Phim dã sử đầu tiên về Hoàng đế Quang Trung”. Laodong.com.vn. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ Đ.T (20 tháng 4 năm 2010). “Khởi chiếu "Tây Sơn hào kiệt" và "Để Mai tính"”. Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ Vân Hồ (1 tháng 3 năm 2009). “Khởi quay "Tây Sơn hào kiệt"”. Toquoc.gov.vn. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ Khởi quay "Tây Sơn hào kiệt" Danh Nghi, báo Thanh Niên, 02/03/2009 22:51
- ^ Thoại Hà (23 tháng 4 năm 2010). “'Tây Sơn hào kiệt' thể hiện hùng khí dân tộc”. Vnexpress.net. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ CÁT VŨ (24 tháng 4 năm 2010). “Xem Tây sơn hào kiệt - chia sẻ một nỗ lực”. Tuổi Trẻ Online. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
Thư mục tham khảo
- Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (1997), Đại cương lịch sử Việt Nam 1, Nhà xuất bản Giáo dục.
- Nguyễn Phan Quang (2005), Theo dòng Lịch sử Dân tộc 1, Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Đặng Việt Thủy; Đặng Thành Trung (2008), 54 vị Hoàng đế Việt Nam, Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân.
- Nguyễn Phan Quang (2006), Một số công trình sử học Việt Nam, Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Tạ Chí Đại Trường (1973), Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam 1771- 1802, Sài Gòn: Nhà xuất bản Văn Sử Học.
- Nhiều tác giả (2007), Quang Trung Nguyễn Huệ, Nhà xuất bản Văn hoá Sài gòn.
- Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng (1976), Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
- Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược 2, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ giáo dục.
- Nhiều tác giả (2006), Quang Trung-Nguyễn Huệ, di sản và những bài học, Tạp chí Xưa và Nay (Hội Sử học Việt Nam) và nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn.
- Trần Trọng Kim (1951), Việt Nam sử lược 2, Sài Gòn: Nhà xuất bản Tân Việt-Hà Nội.
- Ngô gia văn phái (1987), Hoàng Lê nhất thống chí, 1 và 2, Nhà xuất bản Văn học.
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2001), [[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]] , Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo Dục Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp).
- Ngô Giáp Đậu (1995), Hoàng Việt Long hưng chí (trong Tổng tập văn học Việt Nam) 8B, Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.
- Tạ Chí Đại Trường (2007), Việt Nam Thời Tây Sơn: Lịch Sử Nội Chiến (1771 - 1802), Nhà xuất bản Công an nhân dân.
- Yến Phi (1995), Sổ tay Võ thuật (phần thiệu, đồ hình, diễn thế), Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đỗ Bang (2005), Những khám phá mới về Hoàng đế Quang Trung, Nhà xuất bản Thuận Hóa.
- Xuân Duy (2008), Những ánh hào quang rực rỡ sắc xuân, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- (tiếng Anh)Nhung Tuyet Tran, Phan Huy Le, Anthony Reid (2006), Viet Nam: Borderless Histories, University of Wisconsin Press, ISBN 0299217744.
- (tiếng Anh)Largo, V. (2002), Vietnam: Current Issues and Historical Background, Nova Publishers, ISBN 1590333683.
- (tiếng Anh)Kamm, Henry (1996), Dragon Ascending: Vietnam and the Vietnamese, Arcade Publishing, ISBN 1559703067.
Đọc thêm
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục
- Hồ Đắc Duy, Đại Việt sử thi.
- Quách Tấn, Quách Giao (1988), Nhà Tây Sơn, Sở Văn hoá Thông tin Nghĩa Bình.
- Phan Trần Chúc (2000), Vua Quang Trung, NXB. Văn hoá Thông tin, tái bản, Hà Nội
- Đỗ Bang (1998), Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung, Thuận Hoá - Huế tái bản lần 2
- Relation d'un Voyage Cochinchine en 1778, Par Mr Chapman Traduit de L'Anglais par H. Berland. P15-75.BSEI (Bản dịch Nguyễn Đình Đầu, Tạp chí Xưa và Nay số 92 (5.2001).
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nguyễn Huệ |
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về:
|
- Quang Trung tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Nguyễn Huệ tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Nguyễn Duy Chính, Hoàng Đế Quang Trung ra Bắc, nghiên cứu mới 26 Tháng 1 2006 - Cập nhật 14h05 GMT. BBC
- Những bà vợ của Hoàng đế Quang Trung Thúc Giáp, (theo Đại Nam chính biên liệt truyện và một số tài liệu khác) báo Bình Định
- Bí mật quanh cái chết của vua Quang Trung - Lê Văn Qu, Nguyệt san Pháp luật số 51 - tháng 3/2001, trang 16 - 20 (3.159), thư viện tỉnh Bình Định
- Nguyễn Huệ với nhân tài - Hồ Khang, Lịch sử quân sự.- 1989.- Tháng 7 (43).- Tr. 28 - 31 (3.151), thư viện tỉnh Bình Định
- Bình Định: Khánh thành tượng đài Hoàng đế Quang Trung BTK-TTX, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 21:30, 20/01/2008
- Mối 'thâm thù' Gia Long - Tây Sơn: Gậy ông đập lưng ông? Báo Đất Việt. Cập nhật lúc 13:35, 20/08/2011
|
Thể loại:
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Tướng nhà Tây Sơn
- Vua nhà Tây Sơn
- Người Bình Định
- Anh hùng dân tộc Việt Nam
- Người cải cách Việt Nam
- Mất 1792
- Sinh 1753
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con