Nhà văn Nguyên Ngọc, người đã ghép tên mình với Tây Nguyên bằng tài năng văn chương cùng tình yêu mê đắm.
Nhạc trầm trong cõi lòng
24 bài ký về Tây Nguyên, như 24 nốt nhạc trầm lắng trong cõi lòng ông, giữa bao dùng dằng nửa ở nửa đi từ khi tóc còn xanh, gương mặt còn trẻ, nụ cười còn tươi roi rói. Nhiều nhà văn - thế hệ đàn em, đàn con, đàn cháu của nhà văn Nguyên Ngọc - đã theo chân ông đến với mảnh đất này, rồi say mê theo và viết.Lạc rừng của nhà văn Trung Trung Đỉnh, cũng gợi lên nỗi nhớ Tây Nguyên mà trong các câu chuyện kể, kiểu gì cũng nhắc đến tên “anh cả”.
Mê Tây Nguyên, sau Nguyên Ngọc, có Trung Trung Đỉnh. Cả hai ông, thi thoảng chợt nhớ gọi điện hỏi han, giữa sóng điện phập phào, tiếng được tiếng mất, thể nào cũng thấy nhắc đang uống rượu với bà con trên ấy. Không còn nhiều dịp anh em đi cùng nhau, mà vẫn dừng chân ở chốn quen, nơi con người sống với nhau bằng cái tình trọn vẹn.
Nhà văn Nguyên Ngọc viết về Tây Nguyên, không chỉ dừng lại việc phác thảo vẻ đẹp thiên nhiên, không gian văn hóa, lòng người chân thành, để bạn đọc có thể mường tượng được theo hình dung địa lý và nét ký, mà ông thổi vào đó góc riêng trong tâm hồn mình. Nhẹ nhõm mà sâu lắng.
Trong một đêm, nơi nhà rông, “hầu như cả làng đều có mặt, các cụ già, con trai, con gái, trẻ em” ngồi quanh bếp lửa để nghe “Một ông già quắc thước, tóc ngắn, râu quai nón, đẹp như một dũng sĩ trong các trường ca hùng vĩ của Tây Nguyên” kể sử thi, nhà văn đã để trái tim mình đắm chìm theo từng xúc cảm. Khi đọc bút kýNhững chiều kích của rừng, có thể hình dung ra một ông già người Kinh nhỏ bé, tóc ngắn bạc, mặc đồ giản dị, ngồi co chân để cằm tựa vào, hai bàn tay đan ngón nhẹ vào nhau ngồi trong góc nhà sàn, rung động theo từng nhịp thở đêm, những tiếng nói cười đùa se sẽ, tiếng rì rầm chuyện trò nương rẫy rừng hoang mùa vụ ngày thường, tiếng hát vút cao của niềm yêu sáng bừng từ bên trong một sơn nữ rồi vụt tắt. Ông tựa hồ nhắm mắt, để tập trung toàn tâm ý vào các chuyển động tế vi của cõi người đang xoay chuyển xung quanh ông, nhận thức tinh tế cùng tỉnh táo, ông khắc sâu chúng không phải vào não, mà là rung động nhịp co thắt tim, để khi ngồi trước trang giấy hoặc màn hình máy tính, chỉ cần một thoáng hình dung, những hình ảnh lung linh xen kẽ bao âm thanh hoang u đó, tràn ra, tạo thành muôn câu văn đặc sánh ngọt ngào.
“Không có nhạc cụ nào đệm theo lời kể, nhưng vẫn là có nhạc đấy. Đúng hệt như khi ta nghe nhạc giao hưởng, hết một chương là một khoảng lặng khá dài, và ta sẽ rất ngạc nhiên thấy mọi người vẫn im phắc khi ta lại tưởng câu chuyện đã kết thúc, bản giao hưởng đã hết và suýt chút nữa đã vội vỗ tay”. (Những chiều kích của rừng, Tr.15)
Hồn nhiên thanh xuân
Vì sao mà Nguyên Ngọc lại mê say Tây Nguyên đến thế? Phải chăng đến đó, ông gột rửa được bụi bặm bon chen nặng nề phố thị, để khoác lên mình chiếc áo hồn nhiên thanh xuân. Tuổi tác, thời gian có thể làm phai nhạt tóc xanh và bàn tay nhăn nheo lấm chấm vệt đồi mồi, nhưng lại không làm già nua mỏi mệt đi tình yêu thương giữa người và người mà chỉ có người mới mang lại được cho người toàn vẹn.
Những dòng ký của Nguyên Ngọc đẹp mong manh mơ hồ long lanh như bức tranh tâm trạng vẽ muôn giọt sương mai, đọng trên ngàn đầu lá cỏ xanh thẫm, giữa bình minh đang lên trên cửa rừng. Nhà văn đi chầm chậm từng bước, nhận thức từng chỗ đặt chân sao cho không lay động vào thảm thiên nhiên xanh thẳm. Hòa mình vào không gian thâm u nhưng không để vì bản ngã mà làm vướng bận, phai mỏng sắc nắng tươi.
Các ban tôi ở trên ấy là ai?: Núp, già làng của cả Tây Nguyên; Tháng Ninh Nông; A Bốc ở Mường Hon; Người hát rong giữa rừng; Người nghệ sĩ vô danh đã sinh ra cây K’Nia; Người về Kônh Chro… Hay những giá trị văn hóa có được từ lòng người?: Tượng gỗ rừng già; Hiền minh của rừng; Nước mội, rừng xanh và sự sống; Nhà rông, hồn của làng; Sáu linh hồn của người Xteng, Lễ thổi tai và rượu cần. Tản mạn nhớ và quên; Sấm và Sét, Đàn ông và Đàn bà, lạ lùng Gia Rai…
Nhiều câu chuyện mà Nguyên Ngọc kể trong Các bạn ở tôi trên ấy, là những nỗi lòng, tư tưởng mà nhà văn mong bày tỏ. Có khi, đong đầy nỗi niềm trắc ẩn, nhưng lắm lúc lại đơn giản như việc nhớ hay quên trong tâm trí con người:
“Hình như trong cái trò chơi kỳ diệu này của con người Tây Nguyên đối với sự sống có một triết lý nào đó thật uyên thâm. Nhớ và quên, ngẫm mà xem, phải chăng nói cho cùng đó là hai lẽ sinh tồn tuy hai mà một, hai mặt chủ yếu không thể tách rời của công cuộc làm người ở đời. (…) Cuộc đời này, phải chăng lắm lúc đáng quên biết bao nhiêu, quên phứt đi cho rảnh, cho rồi, mà ngẫm cho cùng cũng lại đáng sống để mà nhớ lấy biết bao nhiêu” (Lễ thổi tai và rượu cần. Tản mạn nhớ và quên. Tr.312)
Lễ thổi
tai và rượu cần
(Tản mạn
nhớ và quên)
Nguyên
Ngọc
Trong
bài viết này có sử dụng một số tư liệu
của Jacques Dournes
Nếu
bạn có dịp đến Tây Nguyên, và đừng có
bị cuộc làm ăn bây giờ lúc nào cũng lôi kéo con
người ngược xuôi tất tả, như có
người nói, hãy "thoải mái một chút, hồ
đồ một chút", dám vứt đi mọi lo toan
gẫm cho cùng cũng chẳng có gì là nghiêm trọng ghê
gớm lắm đâu, bạn nán lại ở chơi
với Tây Nguyên dăm ba bữa, được mươi
ngày nửa tháng càng hay, thì cũng chẳng cần chăm
chú lắm đâu, bạn sẽ nhận ngay ra điều
này : người đàn ông Tây Nguyên rất thích lang thang. Tôi
có anh bạn rất giỏi và rất thích xem tử vi. Giá
anh ấy có dịp lập tử vi cho tất cả đàn
ông Tây Nguyên, tôi tin chắc lá số nào của họ cũng
có một chữ "Lữ" to tướng. Lữ hành.
Đàn ông Tây Nguyên, đó là những chàng lữ khách không
biết mệt chán, suốt đời. Ở Tây Nguyên, có
một phong tục rất thú vị : khi đứa bé trai
sơ sinh vừa tròn tháng, người ta đặt nó
nằm trên một chiếc chiếu giữa sàn nhà và
vứt cạnh nó ba vật tượng trưng : một
con dao, một mẩu gỗ nhỏ và một cây gậy.
Đứa bé sẽ quờ tay chạm vào một trong ba
vật ấy. Nếu chạm đúng con dao, mai sau nó sẽ
là một chiến binh dũng mãnh; chạm phải mẩu
gỗ (tượng trưng cho chiếc gậy chỉ huy)
nó sẽ trở thành một thủ lĩnh lớn. Còn
đứa nào chạm phải cây gậy thì chắc
chắn sẽ trở thành một khách lữ hành miệt
mài, mãi mãi lang thang trên những nẻo đường
bất tận, đi tìm những điều tốt lạ
của cuộc đời. Tất nhiên Tây Nguyên không
thiếu những chiến binh anh hùng và những thủ
lĩnh lừng danh. Nhưng người ta bảo, bọn
bé trai sơ sinh, chúng nó mới tròn tháng tuổi mà đã
sớm láu thế, hầu hết chúng nó đều nắm
chặt lấy cây gậy, nhiều khi gỡ mãi cũng
chẳng chịu buông ra ! Tôi cũng có một anh bạn thân
người Gia-rai ở tít một làng rất hẻo lánh,
mỗi lần lên Tây Nguyên thế nào tôi cũng cố tìm
đến tận nơi thăm anh. Ấy vậy mà
mươi lần, may lắm chỉ một hai lần anh
có nhà. Còn thì lần nào cũng thế, chị vợ anh buông
chiếc chày giã gạo hay dừng tay đang trộn men
rượu cần trên chiếc nong tròn đan khéo như
một tác phẩm nghệ thuật, ngửng lên lắc
đầu: "Y Yơn hả? Vô trong rừng mà tìm.
Đang làm rượu cho nó về uống đây này!"
Biết
tìm ở đâu bây giờ, Tây Nguyên nơi đâu chẳng là
rừng ! Người đàn ông Tây Nguyên suốt đời
ở trong rừng, hoặc đuổi theo một con thú, hoặc
lần vết một đàn ong mật, hoặc lặn
lội ngược những con suối đá lởm
chởm và trơn trợt truy tìm tung tích một con cá chình
núi, hay loay hoay chặt cây vác đá chặn đứng
cả một dòng suối lại để tát cá, hoặc
mải miết đuổi theo một con lợn rừng,
một con kỳ đà, một con cúi, một con chuột...
Hoặc mải mê đi tìm một cây gỗ đẹp
để làm tượng, tít tận trong rừng thẳm
hay trên một đỉnh núi dốc ngược. Hoặc
cũng không ít khi ở trong nhà, nhưng là nhà... một
người họ hàng, một người bạn cố
tri, hay cũng rất có thể một người bất
kỳ nào đó cũng đang lang thang như chính anh ta,
mới cùng nhau đánh bạn trên đường, tận
một làng không tên xa lơ xa lắc, la đà tán gẫu và
hút rượu cần. Và lúc ấy thì chẳng còn cần
biết trời đất là gì nữa, chẳng còn cần
biết là đang ở trong không gian, thời gian nào
nữa, cũng chẳng thèm nhớ đường về.
Lúc ấy là cuộc lữ hành đã chuyển sang một
thế giới khác, một không thời gian khác, thế
giới và không thời gian của quên, mà xin bạn
đọc chớ sốt ruột, chốc nữa đây
tôi sẽ cố nói rõ hơn cùng bạn.
"Định
mệnh" của người đàn ông ở đây là
thế. Họ là ở bên ngoài, là thuộc về ngoại
giới, ở ngoài ngôi nhà của họ, gia đình họ,
ở nơi mà theo một nghĩa nào đó, con người
không thật sự còn có "trách nhiệm" nữa, hay
ít ra đã nhẹ trách nhiệm đi rất nhiều.
Như vậy bạn thấy đấy, ở Tây Nguyên
người đàn ông, người cha là bên ngoại
chứ không phải bên nội. Con cái không theo dòng máu của
cha, không sinh ra cùng với tên họ của cha. Ở đây
cội rễ của sự sống không phải là
người đàn ông. Người đàn ông chẳng là gì
cả trong dòng chảy liền mạch vô thủy vô chung của
các thế hệ. May lắm thì anh chỉ là một cái thúc
đẩy nào đó, một cú hích nào đó trong cơ
chế tiếp nối thiêng liêng ấy, chứ không
phải là gốc rễ, cội nguồn quyết
định của nó. Đứa con có thể không có cha,
chứ không bao giờ không có mẹ.
Ở đây người đàn bà mới là bên nội.
Bà ở bên trong, là nội giới, là nhân tố
quyết định của sự nội sinh, là chủ
nhân đích thực của dòng chảy. Cho nên bà là
người chủ của sự sống, người
chủ của gia đình, là cội rễ, là rường
cột. Chính bà giữ sự ổn định cho cuộc
sống. Chính người đàn bà truyền dòng máu của
mình cho các thế hệ nối tiếp, tức chính bà là
người giữ bền chặt "chương
trình" của sự sống, để cho sự
sống không bị đứt đoạn, không bị
"quên".
Cho nên,
nói theo nghĩa sâu nhất, người đàn ông là quên, còn
người đàn bà là nhớ. Bà giữ bền cái nhớ
cho giống nòi.
Ở Tây Nguyên, một đứa bé lọt lòng mẹ ra
vẫn chưa phải là một con người.
Người ta phải thổi linh hồn vào cho nó thành
người. Thổi vào đâu ? Thổi qua lỗ tai. Vì
thế mà có lễ thổi tai cho đứa bé sơ sinh.
Người thổi tai bao giờ cũng là người
đàn bà, đương nhiên phải là như vậy,
bởi như đã nói, chỉ có bà mới giữ giềng
mối của sự sống kia mà. Người đàn bà
thổi tai thường là một bà đã đứng
tuổi - để cho cái nhớ được bền
chắc chăng ? - bà cầm một cuộn chỉ bông,
lấy ra từ chiếc xa quay, phun gừng mà bà đã nhai nát vào đó, rồi thổi bảy
lần vào cuộn chỉ đặt sát vào tai đứa
bé. Vừa thổi vừa khấn :
hluh amang adung
rhung anang tongia
bbèt rosung roya
tongia gah iao
honing ko brua'
tongia gah hnua'
honing ko hmua
|
thông
lỗ mũi
tinh
lỗ tai
phun
gừng
tai
trái
nhớ
lấy công việc
tai
phải .
nhớ
lấy ruộng rẫy
|
Làm người, hãy
nhận lấy hồn người đây
Con
trai
Phải
nhớ lấy cái cuốc
Phải
nhớ lấy cái rìu
Phải
nhớ lấy cái giáo giữ làng
Cái
ná và ống tên.
Con
gái
Chớ
quên chiếc xa cán bông
Cái
go dệt vải
Chớ
quên cái yết làm cỏ
Cái
gùi suốt lúa
Giọt
nước đầu làng
Và
bếp lửa ủ ấm mẹ cha...
Bạn
thấy chưa, từ "nhớ" được
nhắc đi nhắc lại nhiều lần, và cơ quan
của sự nhớ, cũng tức là của sự
hiểu biết, thông tuệ, con đường đi vào
của linh hồn, chính là lỗ tai. Ta có thể hiểu
đối với những dân tộc chưa có văn
tự, lời nói, sự nghe và cái nhớ quan trọng
đến chừng nào. Nhớ chính là sống, bởi vì
sống bao giờ cũng có nghĩa là sống cùng, nhớ
có nghĩa là biết rằng mình là một khâu, một
mắc xích không thể tách rời trong dòng chảy không bao
giờ dứt nối tiếp từ thế hệ này sang
thế hệ khác, đến vĩnh hằng.
Lại
còn một điều này phải chú ý nữa : trong tất
cả các nghi lễ, người cầu khấn bao giờ
cũng là người đàn ông. Duy có trong lễ thổi
tai, lễ truyền cái nhớ, tức sự sống cho
sinh vật vừa sinh ra được chính thức thành
người, người cầu khấn là người
đàn bà.
Bà là
người tuyên ngôn sự sống, bà nắm giữ
bộ nhớ muôn đời của sinh tồn.
Vậy
mà, các bạn nghĩ Tây Nguyên có lắm điều kỳ
không, nhân vật giữ chức năng thiêng liêng duy trì cái
nhớ cho giống nòi đó, đồng thời cũng tác
giả chế ra thứ thuốc quên kỳ diệu
nhất của Tây Nguyên : rượu cần.
Bạn
có muốn biết cách thức một người đàn bà
Tây Nguyên chế biến rượu cần không ?
Đấy là cả một giả kim thuật bí hiểm,
hoặc cũng rất có thể là một trò phù thủy
không hơn không kém.
Rượu
cần được làm bằng những thứ thông
thường nhất trong đời sống hàng ngày :
gạo, ngô, sắn, hoặc một loại ngũ cốc
nào đó, người ta bảo ngon nhất là rượu
kê..., tất cả được nấu chín, giã nát ra, vê
thành những viên nhỏ. Và trộn với men.
Tất
nhiên toàn bộ vấn đề là ở men.
Men
được chế bằng những thứ thảo
mộc đặc biệt có khi là lá, có khi là rễ, cũng
có khi là vỏ cây. Cây gì ? Bí mật. Chỉ có đàn bà
biết, và chúng đều mọc trong rừng rất sâu
nơi, như người ta nói, là chốn cư trú của
các cô gái-rừng, nửa là người nửa là thần
linh và chức năng chủ yếu là mê hoặc con
người. Hoặc đúng hơn, dắt dẫn con
người vào một thế giới khác cái thế
giới quá ư nhàm chán hàng ngày này của chúng ta. Một
số nhà khoa học có lần đã lén men theo dấu
vết các bà đi lấy vật liệu làm men trong
rừng. Họ thử hái một số lá, rễ, vỏ
cây đó, và đã đem tra cứu, đối chiếu
trong các từ điển bách khoa thực vật học
uyên bác nhất. Họ nhận ra và xác định
được tên khoa học của một số loại
cây ấy. Phần lớn đó là những loại cây
độc dược. Chỉ có điều khi họ
đem về trồng trong các vườn của họ thì
chúng đều mất hết tác dụng, có trời
hiểu được vì sao ! Phải là hái tận trong
rừng sâu, và tự tay các bà hái và pha chế kia. Đã
bảo đây là các nữ phù thủy mà lại !
Bột
gạo, ngô, kê hay sắn trộn với thứ men tinh quái
đó được ủ trên những chiếc nong
phủ kín lá chuối trong ba đêm liền. Trong ba đêm
ấy, như một đoàn âm binh bí ẩn, men ngủ say.
Đến ngày thứ ba, người đàn bà sẽ sàng
mang nong ra đến cửa nhà, và đánh thức men
dậy :
ru' togu',
togu' be'
dih pit tah
swaih yoh!
|
dậy đi, nào men
nào,
dậy đi
ta
ngủ say rồi
giờ
dậy thôi nào !
|
Ân
cần, nâng niu như người mẹ đánh thức
đứa con ngoan ngoãn, hiền lành. Nhưng xin chớ
vội nhầm. Bởi vì ngay sau đó, đột ngột
là những lời "giao nhiệm vụ" ghê gớm
này cho đoàn quân men hóa ra là rất ma quái này của các bà :
co topai ne'
potah phun céh
éh phun topai
rokoi toh toại
bonai yeih eng !
|
này
men hãy khiến
cho
nôn tại ghè
cho
ỉa tại chỗ
đàn
ông cởi khố
đàn
bà tụt váy !
|
Vẫn
chưa vừa đâu. Bà lại tiếp tục khấn, bây
giờ là khấn thay cho người đàn ông sẽ
uống rượu do tay các bà chế ra :
o yang pap ko kau
o yang roi ko ka
kiang ko jorok sang arang
kiang ko dih bonai arang !
...
|
lạy
thần, xin thương tôi
lạy
thần, xin ban cho tôi
được lạc vào nhà
người ta
ăn nằm với vợ
người ta !...
|
Trên
khắp thế gian, có ở đâu người ta trao cho
rượu những "chức năng" ghê gớm
như vậy không ? Và lại chính là người đàn bà
trao. Chỉ người đàn bà làm việc ấy. Đàn
ông tuyệt đối không bao giờ đụng tay vào
việc pha chế rượu cần. Đây là lĩnh
vực riêng, thế giới riêng, bí quyết riêng, quyền
lực riêng của các bà.
Trước
khi đổ tất cả cái món thuốc độc
kỳ lạ ấy vào ghè, người đàn bà còn bưng
lấy chiếc nong mà quay tròn, hoặc đi vòng tròn quanh
nong, vừa đi vừa như múa, để làm cho
chất say của bà càng khiến người ta chóng
mặt quay cuồng hơn. Và rồi người ta xếp
các ché rượu được ủ kín, các quả bom nổ
chậm đáng sợ mà xiết bao hấp dẫn, say mê
ấy dọc theo vách nhà hoặc cũng có khi treo chúng lên
trên các xà dọc vách... cho đến khi chúng được
trân trọng bê xuống, buộc vào cột nhà, mở
lớp lá phủ miệng, đổ nước, cắm
cần vào... Và cuộc la đà bất tận của các ông
và cả các bà nữa bắt đầu...
Cho
đến tận lúc ấy, người đàn bà phù
thủy vẫn chưa chịu tha đâu. Bà còn tiếp
tục khấn :
Co topai ne'
Momih phi momih
Coddang mang tongia
Wor toco hia
Wor tona asoi ko ung sang !
|
này hỡi men say
hang ngọt đắng cay
nồng
nẻ cả lỗ tai
quên cả cháu khóc
quên cả nấu cơm cho chồng !
|
Tất nhiên là "quên cháu khóc" và
"quên nấu cơm cho chồng" rồi. Đến khố váy
cũng còn chẳng thiết nữa là ! Bây giờ đã là
một thế giới khác, một vũ trụ khác, ở
đó mọi cấm đoán, kiêng cữ, luật lệ
thường ngày đều vô nghĩa, mọi sự
đều được phép. Lẫn lộn tất
cả. Đảo lộn tất cả. Xóa nhòa tất
cả. Các thân hình xáp vào nhau... Và ở Tây Nguyên, trong các
cuộc say này, có một nguyên tắc nhất thiết
phải theo : mọi người phải cùng say, không còn ai
được tỉnh, không còn nhân chứng tỉnh táo nào
nữa. Tất cả cùng đi vào một thế giới
khác với những quy luật khác : thế giới nơi
ngự trị các quy luật của quên.
Một
nhà dân tộc học có được nghe một
người Gia- rai kể lại câu chuyện thú vị sau
đây về rượu cần :
Một
lần có anh chàng đi uống rượu ở nhà bạn
về, say mèm, một mình trong đêm. " Sợ gì chứ
? Gặp một con voi hay một con tê giác, ta sẽ đánh
tuốt ! " Anh hét tướng lên giữa rừng. Đã
say mà lại, anh ta chẳng còn biết sợ gì cả.
Một con voi rừng xuất hiện : " Ngươi
vừa nói gì đấy ? Ngươi muốn đánh ta à ?
Thì đánh ? " - " Ôi không, thưa ông, tôi đâu dám. Tôi
chỉ say rượu thôi mà ". - " Say gì ? " -
" Thưa ông, rượu cần ạ ? " - "
Ồ, ta muốn nếm thử xem ! " - " Xin mời
ông đến nhà tôi ngày rằm, tôi sẽ thết ông
một bữa ".
Về
nhà, anh ta bảo vợ làm thật nhiều ghè rượu,
đủ loại lớn nhỏ, chật cả nhà.
Rằm, voi đến. " Nó đến đấy,
sắp sẵn rượu ra đi ". Anh ta hút
rượu ra các chậu to tướng. " Rượu
tôi đã thưa với ông đây, xin mời ! ". Voi hút
rượu, hết sạch các chậu. Say mèm, nó rống
lên : " Một trăm người, một ngàn
người đến đây, ta cũng lấy ngà đâm
chết hết ! ". Và nó húc đổ tất cả cây
cối chung quanh. Sáng hôm sau, mọi việc qua đi.
Người đàn ông hỏi voi : " Hôm qua ông nói
những gì vậy ? ". " A, nhóc con, người có lý.
Ta sẽ không ăn thịt ngươi đâu cả con cháu
dòng dõi ngươi nữa. Ta chẳng thèm để ý
đến lời nói của một người Gia-rai say.
Vì bây giờ ta đã biết rồi. Ta đã uống
rượu của người rồi mà ? "...
Bạn
có để ý điều này trong lời khấn cuối
cùng đã nhắc đến trên kia không : rượu
cần ngọt đắng cay nồng khiến
người ta say đến "nẻ cả lỗ
tai". Lỗ tai, như đã nói, là con đường
đi vào của linh hồn, là cửa ngõ của cái nhớ,
là cơ quan của sự thông tuệ. Người khai
mở con đường ấy khi đứa trẻ
vừa lọt lòng mẹ để nó được trở
thành người, người đem đến cái nhớ,
điều kiện thiết yếu của sự sống,
bằng lễ thổi tai, là người đàn bà. Và bây
giờ, người làm cho cái cơ quan thiêng liêng ấy
đến phải "nẻ" ra, người dắt
người ta vào cõi quên đến tận sát ranh giới
của tuyệt đối, khi con người sắp đánh
mất cả bản nguyên của mình, cũng lại chính
là đàn bà. Đàn bà Tây Nguyên là vậy đấy, bây
giờ thì bạn đã rõ chưa ?
Một
đôi người có hiểu biết sâu về Tây Nguyên và
thật tò mò cố ra sức moi tìm bí quyết của
rượu cần bảo rằng trong những thành
phần độc dược rất đa dạng và bí
hiểm các vị nữ phù thủy ở đây dùng trong quy
trình pha chế món men ghê gớm của họ, có một
thứ không thể thiếu : củ riềng. Thậm chí
người ta bảo chính củ riềng là tác nhân chính
của sự say đến chẳng còn biết trời
đất gì nữa như ta đã thấy.
Lại
một điều lạ nữa : gừng và riềng,
hai giống thật gần nhau, như là hai biến thể
gần gũi đến có thể nhầm làm một
của cùng một họ hàng thảo mộc. Vậy mà
gừng thì mở đường cho sự nhớ (trong
lễ thổi tai), còn người anh em của nó là
riềng lại là vị thuốc tuyệt diệu dắt
người ta vào cõi quên mịt mùng !
Hình
như trong cái trò chơi kỳ diệu này của con
người Tây Nguyên đối với sự sống có
một triết lý nào đó thật uyên thâm. Nhớ và quên,
ngẫm mà xem, phải chăng nói cho cùng đó là hai lẽ
sinh tồn tuy hai mà một, hai mặt chủ yếu không
thể tách rời của công cuộc làm người ở
đời. Không biết nhớ thì hẳn nhiên không thể
là con người rồi. Song sống mà không biết quên,
không có những lúc biết quên đi đến mức
"nẻ cả lỗ tai" thì cũng chẳng thể
nào sống nổi trên cõi nhân gian biết mấy khổ đau,
quá ư phức tạp và nhiêu khê này. Cuộc đời
này, phải chăng lắm lúc đáng quên biết bao nhiêu,
quên phứt đi cho rảnh, cho rồi, mà ngẫm cho cùng
cũng lại đáng sống để mà nhớ lấy
biết bao nhiêu.
Nguyên Ngọc
Trích tập bút ký : Tản mạn nhớ và quên
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con