VIỆT NAM TỔ QUỐC TÔI. Biển Đông vạn dặm dang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững trị bình. Đó là hai câu thơ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) tại bài thơ chữ Hán Cự Ngao Đới Sơn trong Bạch Vân Am Thi Tập. Bản dịch thơ của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai - Giám đốc trung tâm minh triết Hà Nội - viết thư pháp tặng những người dân Việt đang hành động vì chủ quyền biển đảo Việt Nam. Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ ra thông điệp ngoại giao của cụ Trạng Trình nhắn gửi con cháu về lý lẽ giữ nước: " Muốn bình sao chẳng lấy nhân / Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình". Điều lạ trong câu thơ là dịch lý, ẩn ngữ, chiết tự của cách ứng xử hiện thời. Bình là hòa bình nhưng bình cũng là Tập Cận Bình. Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam là sự thật hiển nhiên, khó ai có thể lấy mạnh hiếp yếu, cưỡng tình đoạt lý để mưu toan giành giật, cho dù cuộc đấu thời vận và pháp lý trãi hàng trăm, hàng ngàn năm, là "kê cân - gân gà" mà bậc hiền minh cần sáng suốt. "Cổ lai nhân giả tri vô địch, Hà tất khu khu sự chiến tranh" Từ xưa đến nay, điều nhân là vô địch, Cần gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh. "Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân" Nếu nhà vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân ở nơi nhà nát xóm nghèo."Trời sinh ra dân chúng, sự ấm no, ai cũng có lòng mong muốn cả"; "Xưa nay nước phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn giữ được nước, cốt phải được lòng dân".Đạo lý, Dịch lý, Chiết tự và Ẩn ngữ Việt thật sâu sắc thay !
Trung Hoa có câu chuyện phong thủy. Núi Cảnh Sơn, Jǐngshān, 景山, "Núi Cảnh", địa chỉ tại 44 Jingshan W St, Xicheng, Beijing là linh địa đế đô. Cảnh Sơn là Núi Xanh, Green Mount, ngọn núi nhân tạo linh ứng đất trời, phong thủy tuyệt đẹp tọa lạc ở quận Tây Thành, chính bắc của Tử Cấm Thành Bắc Kinh, trục trung tâm của Bắc Kinh, thẳng hướng Cố Cung, Thiên An Môn. Trục khác nối Thiên Đàn (天坛; 天壇; Tiāntán, Abkai mukdehun) một quần thể các tòa nhà ở nội thành Đông Nam Bắc Kinh, tại quận Xuanwu. Trục khác nối Di Hòa Viên (颐和园/頤和園; Yíhé Yuán, cung điện mùa hè) - là "vườn nuôi dưỡng sự ôn hòa" một cung điện được xây dựng từ thời nhà Thanh, nằm cách Bắc Kinh 15 km về hướng Tây Bắc. Một hướng khác nối Hải Nam tại thành phố hải đảo Tam Sa, nơi có pho tượng Phật thuộc loại bề thế nhất châu Á. Tam Sa là thành phố có diện tích đất liền nhỏ nhất, tổng diện tích lớn nhất và có dân số ít nhất tại Trung Quốc. Theo phân định của chính phủ Trung Quốc, Tam Sa bao gồm khoảng 260 đảo, đá, đá ngầm, bãi cát trên biển Đông với tổng diện tích đất liền là 13 km². Địa giới thành phố trải dài 900 km theo chiều đông-tây, 1800 km theo chiều bắc-nam, diện tích vùng biển khoảng 2 triệu km². Đó là đường lưỡi bò huyền bí. Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam nằm trên trục chính của sự thèm muốn này.
Ngày xuân đọc Trạng Trình. Lạ lùng thay hơn 500 trước Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự báo điều này và sứ giả Thanh triều là Chu Xán khi nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng có câu “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (về môn lý học nước Nam có ông Trình Tuyền) rồi chép vào sách để truyền lại bên Tàu.
CỰ NGAO ĐỚI SƠN
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bích tầm tiên sơn triệt đế thanh
Cự ngao đới đắc ngọc
hồ sinh
Đáo đầu thạch hữu bổ
thiên lực
Trước cước trào vô quyển
địa thanh
Vạn lý Đông
minh quy bá ác
Ức niên
Nam cực điện long bình
Ngã kim dục triển phù nguy
lực
Vãn khước quan hà cựu đế
thành
Dịch nghĩa:
CON RÙA LỚN ĐỘI NÚI
Nước biếc ngâm núi tiên trong tận đáy
Con rùa lớn đội được bầu ngọc mà sinh
ra
Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời
Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn không dội
tiếng vào đất
Biển Đông vạn dặm đưa
về nắm trong bàn tay
Muôn năm cõi
Nam đặt vững cảnh trị bình
Ta nay muốn thi thổ sức phù nguy
Lấy lại quan hà, thành xưa của Tổ tiên.
Dịch thơ:
CON RÙA LỚN ĐỘI NÚI
Núi tiên biển biếc nước trong xanh
Rùa lớn đội lên non nước thành
Đầu ngẩng trời dư sức vá đá
Dầm chân đất sóng vỗ an lành
Biển Đông vạn dặm dang
tay giữ
Đất Việt muôn năm vững
trị bình
Chí những phù nguy xin gắng sức
Cõi bờ xưa cũ Tổ tiên mình.Nguyễn Khắc Mai
dịch nghĩa và dịch thơ
Xem tiếp...
dịch nghĩa và dịch thơ
Xem tiếp...
Tình hình biển Đông có gì mới ? (3)
Tình hình biển Đông có gì mới ? (2)
ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM. Tình hình biển Đông có gì mới? là trang thu thập thông tin, nghiên cứu động thái quan hệ Quốc tế và Việt Nam về biển Đông. Số báo đầu tiên của chuyên mục này đăng trên trang www.hoangkimvietnam.wordpress.com ngày 6 tháng 7 năm 2011. Cho đến nay, trang tin đã thu thập chọn lọc 35 phản hồi. Tài liệu đáng chú ý mới nhất là bài báo “Sự trở lại Đông Nam Á của Liên Bang Nga và tác động đối với Việt Nam” do tác giả Nguyễn Thị Mai Hoa đăng trên Văn Hóa Nghệ An ngày 9 tháng 2 năm 2014. Bài báo có đoạn viết: “Bước vào thế kỷ XXI, Đông Nam Á trở thành một trong những khu vực địa – chính trị, địa – quân sự, địa – kinh tế quan trọng bậc nhất của thế giới với sự gia tăng ảnh hưởng chính trị, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ấn tượng vượt xa mức trung bình toàn cầu, với vai trò hàng đầu trong sự liên kết lực lượng mới đang nổi lên ở khu vực [1]. Những yếu tố đó khiến Đông Nam Á trở thành “vùng đệm” vô cùng quan trọng trong chiến lược kiềm chế lẫn nhau, lan tỏa ảnh hưởng ở châu Á – Thái Bình Dương của hàng loạt nước lớn. Do vậy, sự trở lại Đông Nam Á của Liên Bang Nga là một tất yếu chiến lược, có tác động đa chiều và trực tiếp tới cục diện khu vực.”… “Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương và tiểu khu vực Đông Nam Á làm tăng vị thế địa – chính trị của Việt Nam. Án ngữ vị trí quan trọng ở Đông Nam Á, từ đó có thể kiểm soát các tuyến đường hàng hải và hàng không huyết mạch đi qua khu vực biển Đông – nơi LB Nga có nhiều lợi ích thiết thân với yêu cầu bảo đảm các quyền lợi an ninh, kinh tế, hàng hải có ý nghĩa chiến lược, nên trong bước trở lại Đông Nam Á của nước Nga, Việt Nam là một mặt xích quan trọng. Ngày tuyên thệ nhậm chức (7-5-2012), Tổng thống V.Putin đã ký Sắc lệnh “Về các biện pháp thực hiện chính sách đối ngoại“; trong đó Việt Nam là một trong những quốc gia mà nước Nga đặt yêu cầu “củng cố và làm sâu sắc thêm đối tác tin cậy công bằng và sự hợp tác chiến lược” trong quan hệ Nga – châu Á – Thái Bình Dương, nhằm “bảo đảm các lợi ích quốc gia Nga trên cơ sở các nguyên tắc thực dụng, cởi mở và đa phương trong bối cảnh đang hình thành hệ thống đa cực trong quan hệ quốc tế”[36]. Trên thực tế, Nga đã lập tức có những động thái cụ thể, dựa trên đó, có thể hoàn toàn tin vào “tính thực dụng” trong chính sách đối ngoại của nước Nga – đó là vấn đề biển Đông.” …”Vốn lâu nay giữ thái độ thận trọng và trung lập trong các tranh chấp biển Đông, gần đây nước Nga đã không đứng ngoài cuộc. Tháng 4-2012, Tập đoàn khí đốt Nga Gazprom và Vietsovpetro đã thỏa thuận về việc Gazprom sẽ tiến hành cùng khai thác khí đốt tại hai lô 5.2 và 5.3 ngoài khơi Việt Nam – nơi mà Bắc Kinh cho là “nằm bên trong hải giới truyền thống” của mình và công ty Anh BP (British Petroleum) đã phải rút lui dưới áp lực của Trung Quốc. Trong khi Mỹ đang lưỡng lự, chưa rút lui nhưng cũng không có dấu hiệu tiến tới thực hiện dự án Exxon Mobil khai thác dầu tại lô 119 ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam, còn Ấn Độ cũng đang chần chừ xem có nên bước thêm bước nữa trong dự án thăm dò dầu khí ở hai lô 127 và 128, dù dự án được sự ủng hộ của Nhật Bản, thì động thái nói trên của Nga là một diễn biến quan trọng, thể hiện bước chuyển trong lập trường của Nga đối với vấn đề biển Đông. Nếu Nga khai thác dầu khí thành công có nghĩa là Việt Nam có thêm đồng minh trong giải quyết tranh chấp trên biển Đông – nơi đang nóng lên từng ngày do các xung đột lãnh hải và việc khai thác tài nguyên diễn ra êm thấm là một hình thức xác định / khẳng định chủ quyền trên vùng biển đó.” (Hoàng Kim điểm tin)
Tình hình biển Đông có gì mới ? (1)
Biển Đông và đường lưỡi bò vẫn là chủ đề nóng và động thái còn diễn biến phức tạp. Đây chỉ mới là sự khởi đầu của cuộc chiến pháp lý về chủ quyền trên biển Đông. Phía Trung Quốc đã chuẩn bị dư luận trong nước trên 60 năm (1950- 2011) về đường lưỡi bò “chuỗi ngọc trai của đất mẹ Trung Quốc” và đã thực hành “lấn dần từng bước”, “đặt trước việc đã rồi”, chọn thời cơ thích hợp đưa “đường lưỡi bò” thành vấn đề đang tranh chấp. Trung Quốc hiện đang hối thúc Việt Nam sớm đồng thuận theo cách “chủ quyền thuộc tôi, gác bỏ tranh chấp, cùng nhau khai thác, lấy tiền đổi đất, đất đổi hòa bình”. Phía Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa là sự thật lịch sử hiển nhiên và hoàn toàn có đủ căn cứ pháp lý; Quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hướng dư luận vào sự ứng xử phù hợp, kiềm chế, không có những hành động tự phát, không tham gia vào những hoạt động không chính thống, đảm bảo nguyên tắc không làm phức tạp thêm tình hình giải quyết tranh chấp. Bản tuyên cáo đặc biệt do một số nhân sĩ, trí thức khởi xướng về việc nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục có những hành động gây hấn xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam trên Biển Đông ngày 25 tháng 6 hiện có 1164 người tham gia ký tên. Quan điểm của những người ký tuyên cáo coi việc giải quyết vấn đề biển Đông trong hòa bình thuộc trách nhiệm của Chính phủ nhưng điều đó không có nghĩa người dân không được quyền tiếp tục thể hiện thái độ của mình; Tuyên cáo đề cao ý chí, nguyện vọng và sức mạnh của toàn dân. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân. Vì vậy bên cạnh biện pháp chính trị, quân sự và ngoại giao, biện pháp đấu tranh hiệu quả nhất vẫn là phải dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc. Vấn đề biển Đông đòi hỏi sự bản lĩnh và trí tuệ, sáng suốt và kiên trì, thế và lực của toàn dân tộc, sự ủng hộ quốc tế, sự minh bạch thông tin và phổ biến sâu rộng kịp thời cho dân chúng biết các vấn đề liên quan đến tranh chấp biển Đông.
Lần đầu tiên, một bản phân tích kỹ lưỡng về bức Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (Huu Nguyen). Bài này được đăng trên Đại đoàn kết ngày 20 tháng 7 năm 2011.
Đại đoàn kết : Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (20/07/2011) |
Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ
quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ
quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết
sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn
toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế,
bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể
nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành
động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền
phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
|
Đảo Núi Le thuộc quần đảo Trường Sa
Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958,
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết
định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của
Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa
(tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày
14-9-1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm
Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:
“Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý
rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng
quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm
triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ
với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính
gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.
Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung
Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức
tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo
luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung
quanh eo biển Đài Loan. Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các
hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết
vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của
một số quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới
nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng
chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển,
cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển.
Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung
Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm
giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong
chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm
kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt
ra. Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định
nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc
nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã
nằm trong chiến lược “lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên
giới quốc gia trên biển.
Ngày 26-5-1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng
thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển
Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên
eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc
cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan,
ngày 3-9-1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo
ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng
eo biển Đài Loan lần thứ nhất. Ngày 11-8-1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu
Ân Lai tuyên bố sẽ “giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào
hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. Ngày 12-9-1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân
Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng
Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên
can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này. Năm 1958, tiếp tục xảy ra
cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23-8-1958 Trung Quốc
đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ
tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu
chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo
tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.
Ngoài bối cảnh “phức tạp và cấp bách” đối với Trung
Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển
Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh
quan hệ đặc thù VNDCCH –Trung Quốc lúc đó “vừa là đồng chí vừa là anh
em”. Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc
lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân
giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ
của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho
Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH – Trung
Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe
dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải
quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về
lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên
biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy
nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích “sâu xa” của họ trên Biển Đông
nên đã “lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
vào bản tuyên bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát
từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang
rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã
hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan
điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung
Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan. Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn
cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của
Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố
từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về
lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
là Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục
tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn
cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên. Công hàm 1958 có hai nội dung
rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung
Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho
các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung
Quốc tuyên bố. Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ
nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên
bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ
trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy
diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng
định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần
đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham
dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng
tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối
hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là
kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp
lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố
đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo
luật pháp quốc tế là vô hiệu. Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là
một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp
định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ
quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày
4-9-1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu
lực. Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi
theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía
Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính
phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai
quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội
dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc
tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày
4-9-1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về
lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở
pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng
đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách
minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối
cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập
trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của
Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ
quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề
cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh
sáng của pháp luật quốc tế. Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp
định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt
Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính
nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên
hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến
quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy
bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
Bức Công hàm 1958
(Ảnh minh họa. Nguồn: Internet)
Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy
rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không
hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ
quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ
chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý
của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như
lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con
ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất
nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để
giành độc lập, tự do. Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành
động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể
hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với
cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève
năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho
VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù
hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy
giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của
người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan
điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt
Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng
hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH
lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc,
Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố
của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh
hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết
“estoppel” để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với
Việt Nam.
Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào
có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc,
ngoại trừ thuyết “estoppel”. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp
một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do
đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các
điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc
cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách
minh bạch; (2) Quốc gia nại “estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa
trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những
hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại “estoppel” cũng
phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã
bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố
đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được
phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án “Phân định biển
trong vùng Vịnh Maine”, bản án “Những hoạt động quân sự và bán quân sự
tại Nicaragua”, bản án “Ngôi đền Preah Vihear”…
Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những
lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở
trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ
nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung
Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào
những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những
lời tuyên bố đó.
Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên
Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch
sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình
làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng
đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc.
Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới
ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố
tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ
âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ “nuốt
trọn” Biển Đông, theo kiểu “miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm
phức tạp hoá tình hình”.
Nhóm PV Biển Đông
|
|
Tiến sĩ Vũ Cao Phan, người rất được dư luận coi trọng sau bài trả lời phỏng vấn của đài Truyền hình Phượng Hoàng Trung Quốc về biển Đông, đã chia sẻ với VnExpress:
- Để giải quyết tình hình căng thẳng ở biển Đông, theo ông chúng ta nên có hành động như thế nào?
- Tôi từng nói chúng ta không thể chống con sào xuống Thái Bình Dương để đẩy con thuyền Việt Nam ra xa khỏi Trung Quốc. Hai nước trở thành láng giềng đó là sự ấn định của của tạo hóa, lịch sử, không thể thay đổi được. Chúng ta không có cách nào khác là chấp nhận vị trí địa lý mà mình có, từ đó xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với nước bạn, có lợi cho hai bên. Vấn đề là chúng ta phải ở tư thế như thế nào, phải xử sự ra sao thì lại là câu chuyện tưởng dễ mà khó. Nhưng tôi là một người lạc quan, tôi rất tin mọi sự sẽ được giải quyết theo hướng tích cực.
Giáo sư Phan Huy Lê:
Những hành động của Trung Quốc đang làm cho tình hình Biển Đông nóng dần lên. Dĩ nhiên Việt Nam phải theo dõi sát sao, xây dựng chiến lược ứng phó lâu dài, đồng thời cần chủ động đối phó kịp thời với từng việc cụ thể. Tôi muốn nêu lên mấy suy nghĩ và đề xuất sau đây:
1. Lập trường bất biến của chúng ta là coi việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, lãnh thổ toàn vẹn của đất nước là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Trên lĩnh vực này, mọi quốc gia – dân tộc đều bình đẳng, không có phân biệt nước lớn – nước nhỏ và càng không có quyền nước lớn áp đặt cho nước nhỏ.
Lịch sử Việt Nam còn ghi lại bao lời tuyên bố vang vọng mãi với non sông đất nước, thấm sâu trong tâm trí các thế hệ con người Việt Nam như lời thề non nước. Đó là lời thơ thần “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” thời chống Tống thế kỷ XI, lệnh của hoàng đế Lê Thánh Tông “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại vứt bỏ… Kẻ nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru di” năm 1473, lời kêu gọi “Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ (đánh cho biết rằng nước Nam anh hùng và có chủ)” của Quang Trung Nguyễn Huệ trong chống Thanh thế kỷ XVIII, lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tuyên ngôn độc lập năm 1945 “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập”.
Lịch sử Việt Nam cũng chứng tỏ rằng Việt Nam tuy là nước nhỏ (so với nhiều nước xâm lược, nhỏ hơn nhiều lần về lãnh thổ, dân số, tiềm lực kinh tế, quân sự) nhưng vẫn có thể tạo nên sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Đó là chiến lược giữ nước “dĩ đoạn chế trường (lấy ngắn chế dài)” theo Trần Quốc Tuấn, “dĩ nhược chế cường, dĩ quá địch chúng (lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều)”, “dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, dĩ chi nhân nhi địch cường bạo (lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo)” theo lời Nguyễn Trãi.
2. Hết sức coi trọng việc giữ gìn hòa bình, ổn định cho đất nước và khu vực, biết tự kiềm chế, kiên trì sử dụng các giải pháp ngoại giao, chính trị để giải quyết các vụ đụng độ, tranh chấp trên Biển Đông bằng công pháp quốc tế và bằng con đường đấu tranh ngoại giao, bằng đàm phán giữa các nước có quyền lợi liên quan. Cần triển khai mạnh mẽ, chủ động mặt trận đấu tranh ngoại giao, nhất là ngoại giao pháp lý, trên các diễn đàn và trong các tổ chức khu vực và quốc tế, làm cho dư luận thế giới thấy rõ lẽ phải và chính nghĩa của Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng ASEAN và các nước trên thế giới. Trong cuộc đấu tranh này, không phải sức mạnh quân sự mà là sức mạnh của lẽ phải, của chính nghĩa và của trí tuệ có sức thuyết phục cao nhất.
3. Bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia không chỉ là trách nhiệm của Đảng cầm quyền và Nhà nước Việt Nam mà còn là trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của nhân dân, của mọi người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Vì vậy cần thông tin kịp thời, công khai mọi diễn biến tình hình Biển Đông cho nhân dân biết để tạo nên sự đồng thuận và tham gia của toàn dân, của cả dân tộc Việt Nam.
4. Lịch sử hàng nghìn năm bảo vệ đất nước cho thấy sức mạnh tiềm tàng lớn lao nhất của dân tộc Việt Nam là sức mạnh của lòng yêu nước, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc. Mỗi khi Tổ quốc lâm nguy hay bị đe dọa, mọi người Việt Nam đều sẵn sàng gạt bỏ lợi ích riêng, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết để chung sức bảo vệ đất nước. Chúng ta không bao giờ được quên những tổng kết của tổ tiên như lời Trần Quốc Tuấn, muốn giữ nước phải lo “trên dưới một dạ, lòng dân không lìa”, “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức”, “chúng chí thành thành (ý chí của dân chúng là bức thành giữ nước)”, lời Nguyễn Trãi “sức dân như nước”, “thuyền bị lật mới thấy dân như nước”…
Sức mạnh quốc phòng rất quan trọng, sự liên kết quốc tế rất cần thiết nhưng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và đoàn kết dân tộc luôn luôn là nền tảng giữ vai trò định đoạt. Vì vậy, nâng cao hiểu biết của nhân dân về quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa trên Biển Đông và cơ sở lịch sử – pháp lý về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là rất cần thiết và quan trọng. Rất tiếc, cho đến nay, những ấn phẩm nghiên cứu và phổ cập về những vấn đề này còn quá ít, chưa đáp ứng yêu cầu tìm hiểu của nhân dân.
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đang khẩn trương hoàn chỉnh bản thảo để xuất bản một công trình nghiên cứu về chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng nằm trong mong muốn đóng góp một phần giải quyết nhu cầu này.
(Theo Tạp chí Xưa và Nay số 381, tháng 6/2011)
Hoàng Kim(Bài tổng hợp)
Tin liên quan:
‘Tôi bất ngờ về hiệu ứng buổi phỏng vấn của đài Phượng Hoàng’ Tình thế lưỡng nan của VN, Philippines và những cơ hội mới Học giả Việt Nam trả lời truyền hình TQ về Biển Đông Yêu cầu Bộ Ngoại giao cung cấp thông tin liên quan đến quan hệ với Trung Quốc DANH SÁCH 1.164 NGƯỜI KÝ TUYÊN CÁO ĐẶC BIỆT BẢN TUYÊN CÁO ĐẶC BIỆT DO GIỚI NHÂN SĨ TRÍ THỨC KHỞI XƯỚNG
Nói chuyện chuyên đề về chủ quyền biển đảo‘Tôi bất ngờ về hiệu ứng buổi phỏng vấn của đài Phượng Hoàng’ Tình thế lưỡng nan của VN, Philippines và những cơ hội mới Học giả Việt Nam trả lời truyền hình TQ về Biển Đông Yêu cầu Bộ Ngoại giao cung cấp thông tin liên quan đến quan hệ với Trung Quốc DANH SÁCH 1.164 NGƯỜI KÝ TUYÊN CÁO ĐẶC BIỆT BẢN TUYÊN CÁO ĐẶC BIỆT DO GIỚI NHÂN SĨ TRÍ THỨC KHỞI XƯỚNG
Tư liệu biển Đông và đường lưỡi bò
Phản đối tạp chí khoa học của Ý in bản đồ sai sư thât về biển đảo Viêt Nam
Mr. Do Blog: “Bức thư của người VN gửi tạp chí khoa học tại Ý (đã đăng bản đồ lưỡi bò của Trung Quốc).
Anh Nguyễn Hùng, ở Úc, người chuyển cho tôi bức thư này, cũng là một
trong những người đã thông báo cho tôi vụ Hội Địa lý Quốc gia Mỹ in bản
đồ sai sự thật về Hoàng Sa trước đây.Nhiệt tâm của những người như anh
Hùng khiến tôi vừa thán phục (vừa tự thấy xấu hổ vì không thường xuyên
“phụ họa” được với họ).”
25 June, 2011
Professor Raffaello Cossu
IMAGE (Environmental Engineering) Department
Università degli Studi di Padova
Lungargine Rovetta 8, 35127Padova, Italy
Email: wmeditorinchief@gmail.com
25 June, 2011
Professor Raffaello Cossu
IMAGE (Environmental Engineering) Department
Università degli Studi di Padova
Lungargine Rovetta 8, 35127Padova, Italy
Email: wmeditorinchief@gmail.com
Dear
Professor Cossu:
We are a group of Vietnamese academics and
professionals currently living in various parts of the world. We would
like to join Professors Van Tuan Nguyen (Garvan Institute of Medical
Research, Australia) and Tuan Quang Pham (The University of New South
Wales, Australia) in expressing our concern, if not outrage, about the
bias shown in the map of China (i.e. deletion of neighboring countries
such as Vietnam, Malaysia, Indonesia, The Philippines…and inclusion of
the disputed waters and islands to the east of Vietnam) contained in the
paper “Municipal solid waste source-separated collection in China: A comparative analysis”
authored by Tai et al. recently appearing in your journal .In the
interest of scientific integrity as well as the true facts of the East
Sea of South East Asia, we would appreciate your putting out a
correction as requested by the Professors or at least printing their
letters in full so the readers of your journal can make up their minds
about the bias in the paper written by Tai et al.
Yours sincerely,
Khoa Ba Ngo, M.B.A., USA
Mai Tran, Ph.D, , Australia
Tuyen Gia Do, B.E. Elect, Saudi Arabia
Phuong Minh Tran, M. Tech, Australia
Long Viet Bui, B.E. Mech, Vietnam
Ba Tuoc Tran, M. Com., Vietnam
Long Quang Le, B.E. Mech, New Zealand
Xa Van Nguyen, M.E. Civil, USA
Tu Van Nguyen, M.Com. (Econ.), New Zealand
Lap Q Nguyen, Ph.D.,USA
Han Huu Huynh, B.S. Tech (Food), USA
Tuyet Van Duong, M.Com. (Econ.), USA
Danh Cong Bien, M.E. Elect, New Zealand
Triet Minh Ngo, P.E. Civil, USA
Kho Huu Nguyen, Ph.D.(Chem Eng), P.E. (USA)
Nham Truong, Ph.D, Australia
Ngoc Bich Tran, Ph.D. (Econ.), CFP, E.A. (USA)
Hong Ba Le, M.Sc, Australia
Huynh Tung Ngo, B, Agr.Sc, Australia
Hung The Vu, B.S. Comp., USA
Ngon Danh Nguyen, P.E. Civil, USA
Mai Chi Thi Nguyen, B.Com., USA
Khanh Tuoc Trinh, Ph.D., New Zealand
Bich Lien Nguyen, B.A. Edu., USA
Mui Dinh, B.A. Edu., Australia
Tuan Sy Bui. Ph.D, MBA, MSCIS, USA
Duong Thanh Tran, B.A.Edu, New Zealand
Chau Bich Bui, M.A., USA
Nga Thien Nguyen, B.S. Comp., New Zealand
Thi Nhung Do, B.A. Edu., USA
The Hung Nguyen, Ph.D., Uni of Danang, Vietnam
Hung Nguyen, B.E. Chem., Australia
Tara T. VanToai, Ph.D., USA
Norman N. VanToai, Ph.D., USA
Ngoc Diep Vuong, M.Com.,Economics, USA
Thanh Truc Vuong, B.A.Edu, USA
Long Phan Pham, P.E, Viet Ecology Foundation, USA
Quyet Vu, M.A.Edu., USA
Marie Dung Burns, M.A. Edu., New Zealand
Lieu Thu Le, B.E. Chem, New Zealand
Ngoc Bich Becker, MTA. CANDMED, Germany
Van Hao Nguyen, M.E. Civil, Australia
Thi Tinh Tien Le, M.Com, Economics, Australia
Mong Trinh Thi Nguyen, B.A, New Zealand
Thomas Hung Ngoc Dang, M.B.A, CPEng, Australia Khanh
Nguyen-Do, Ph.D., Australia
Kim Ngoc Truong, B.E. Chem, USA
Disguised and fabricated map of China without the countries of South East Asia
True regional map of South East Asia
Phía tạp chí Ý đã trả lời:
Dear Hung Nguyen,
Thank you for your e-mail. The Editor in Chief is evaluating the matter as a priority and will publish a note on the next issue of our Journal.
Best regards,
Managing Editorial Office
Waste Management
Nguôn: Mr. Do
Thế lưỡng nan của ASEAN ở Biển Đông
ASEAN’s dilemma in South China Sea
Michael Richardson Straits Times (Singapore) July 4, 2011 http://www.viet-studies.info/kinhte/ASEAN_Dilemma_trans.htm
Các đòi hỏi xung khắc nhau của Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Á về việc kiểm soát các khu vực rộng lớn của biển Đông có thủy sản có giá trị và dầu mỏ, khí thiên nhiên và tài nguyên khoáng sản dưới đáy biển, đã thu hút Mỹ và các cường quốc bên ngoài khác vào cuộc tranh chấp này.
Nước nào trong các nước có can dự vào trường tranh đua này sẽ thắng thế, và bằng cách nào? Hay các tay chơi chính sẽ rụt lại sự đối đầu để tiếp tục nền hòa bình và thương mại đã thúc đẩy châu Á đi đầu trong tăng trưởng kinh tế toàn cầu ?
Quyền lợi được hay thua là rất cao. Mối quan hệ Trung Quốc-Mỹ là một trụ cột của sự ổn định châu Á. Tranh chấp Biển Đông là một phép thử các quan hệ trong tương lai giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Sự gắn kết của ASEAN cũng đang được thử nghiệm trong cuộc đấu đá giữa siêu cường quân sự hàng đầu và gã khổng lồ khu vực đang trỗi dậy.
Trung Quốc đang phô trương sức mạnh cơ bắp của họ bởi vì nước này nói rằng họ có chủ quyền không thể tranh cãi trên các nhóm đảo chính ở Biển Đông và quyền tài phán trên các vùng biển xung quanh, và rằng các quốc gia Đông Nam Á dẫn đầu là Việt Nam và Philippines đang ăn cắp một lượng lớn khí đốt, dầu và thuỷ sản mà đúng lẽ là thuộc về Trung Quốc.
Bắc Kinh đã cảnh báo rằng việc này phải chấm dứt. Chủ nghĩa dân tộc trong số các bên tranh chấp chủ yếu đang cháy bùng cảm xúc.
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton vào ngày 23 tháng 6 xác định lại vị thế chính thức của Washington sau cuộc hội đàm với đối tác Albert del Rosario của Philippines . Ông này nói với bà rằng kể từ tháng Hai, đã có tới 9 lần “xâm nhập gây hấn” của Trung Quốc trong vùng biển thuộc biển Đông do Philippines tuyên bố chủ quyền. Việt Nam cũng đã có các khiếu nại tương tự.
Bà Clinton nói rằng Washington không đứng về bên nào trong các tranh chấp biên giới biển và lãnh hải ở biển Đông nhưng phản đối việc sử dụng hoặc đe dọa vũ lực để thúc đẩy những đòi hỏi chủ quyền của bất kì bên nào.
Bà nói thêm rằng Hoa Kì có “một lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải, tôn trọng luật pháp quốc tế, và giao thương hợp pháp không bị cản trở, trong vùng biển Đông. Chúng tôi chia sẻ những lợi ích không chỉ với các thành viên ASEAN nhưng với các quốc gia hàng hải khác trong cộng đồng quốc tế rộng lớn hơn “.
Đó là lập trường chính thức Mỹ. Tuy nhiên, cựu phụ tá ngoại trưởng Nicholas Burns gần đây đã đưa ra một cái nhìn bộc trực trong cách đánh giá thực sự của Washington khi Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào chuẩn bị trao đòn xeo quyền lực cho một thế hệ lãnh đạo trẻ hơn năm tới.
Ông Burns nói rằng Washington thấy sự rối rắm không phải từ thế hệ ông Hồ Cẩm Đào mà từ thế hệ dân tộc chủ nghĩa hơn sẽ sớm lên nắm quyền lực.
“Tôi nghĩ có một sự đồng thuận rằng Trung Quốc là một mối đe dọa tiềm năng …và rằng nếu Trung Quốc sẽ trỗi dậy với việc hiện đại hóa quân sự lớn một cách bất thường, và thấy có tình trạng hỗn loạn ở châu Á và một sự giảm sút hoặc rút lui của Mỹ và … một hệ thống liên minh tàn lụi, thì Trung Quốc có thể bị cám dỗ để tìm kiếm sự thống trị quân sự.”
Ông Burns nói rằng ông không có ý nói về sự thống trị thực dân, nhưng “khả năng đe dọa, thứ hành vi của Trung Quốc mà chúng ta đã thấy ở ASEAN (Diễn đàn khu vực về an ninh) mùa hè năm ngoái trên biển Động, một nước Trung Quốc đi quá trớn.”
Mặt khác, nếu Mỹ “có thể giữ nguyên vị thế của mình ở châu Á, vẫn duy trì sức mạnh quân sự chủ yếu của nó thông qua hệ thống đồng minh của mình, và cũng bao gồm luôn Ấn Độ trong một mối quan hệ đối tác chiến lược mới ở Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, có nhiều khả năng hơn nữa khi Trung Quốc trỗi dậy giữa một biển dân chủ đầy các cường quốc dân chủ, thì sẽ là hoà bình “.
Sự đồng thuận Washington do ông Burns nêu ra là nhất quán với các hành động của Mỹ. Trong tháng vừa qua, chính quyền Obama đã tái khẳng định một cách rõ ràng cam kết của mình với các đồng minh chủ chốt châu Á là Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines. Họ cũng đã làm điều tương tự với Australia.
Bộ Tư lệnhThái Bình Dương Mỹ đã tổ chức các cưộc tập trận huấn luyện trong vùng biển Đông với Philippines và một số nước Đông Nam Á khác. Trong khi đó, Washington đã củng cố quan hệ chiến lược với Việt Nam.
Mỹ cũng đã đồng ý với Nhật Bản đưa Ấn Độ vào một cuộc đối thoại an ninh ba bên, trên cơ sở Ấn Độ có các lợi ích thương mại và hải quân đang tăng lên tại các tuyến đường biển bận rộn xuyên qua biển Đông và New Delhi quan tâm đến cách hành xử của Trung Quốc ở đây như là một dấu hiệu về cách mà Bắc Kinh sẽ hành xử như thế nào trong tranh chấp biên giới Trung-Ấn.
Tuy nhiên, có dấu hiệu đáng lo ngại rằng Trung Quốc tin rằng các động thái này của Mỹ, đồng minh và bạn bè chỉ là trò tháu cáy và rằng cán cân quyền lực trong vùng biển Đông sẽ nghiêng về phía Trung Quốc mà không gì ngăn cản được vì giao thương và các liên kết khác đang lớn mạnh của Trung Quốc với Đông Nam Á mang thêm đòn xeo.
Các quốc gia ASEAN có thể phải đối mặt với một sự lựa chọn đau đớn. Họ sẽ xuống nước nhân nhượng, và do đó làm táo tợn hơn một Trung Quốc ngày càng có thế lực, là một phần không thể tách rời của châu Á, hay họ sẽ dựa vào các đảm bảo ngoại giao và trợ giúp chiến lược tương đối yếu và bị phân tâm từ các cường quốc ngoài khu vực như Mỹ và Nhật Bản.
NGỌC PHƯƠNG NAM
Yours sincerely,
Khoa Ba Ngo, M.B.A., USA
Mai Tran, Ph.D, , Australia
Tuyen Gia Do, B.E. Elect, Saudi Arabia
Phuong Minh Tran, M. Tech, Australia
Long Viet Bui, B.E. Mech, Vietnam
Ba Tuoc Tran, M. Com., Vietnam
Long Quang Le, B.E. Mech, New Zealand
Xa Van Nguyen, M.E. Civil, USA
Tu Van Nguyen, M.Com. (Econ.), New Zealand
Lap Q Nguyen, Ph.D.,USA
Han Huu Huynh, B.S. Tech (Food), USA
Tuyet Van Duong, M.Com. (Econ.), USA
Danh Cong Bien, M.E. Elect, New Zealand
Triet Minh Ngo, P.E. Civil, USA
Kho Huu Nguyen, Ph.D.(Chem Eng), P.E. (USA)
Nham Truong, Ph.D, Australia
Ngoc Bich Tran, Ph.D. (Econ.), CFP, E.A. (USA)
Hong Ba Le, M.Sc, Australia
Huynh Tung Ngo, B, Agr.Sc, Australia
Hung The Vu, B.S. Comp., USA
Ngon Danh Nguyen, P.E. Civil, USA
Mai Chi Thi Nguyen, B.Com., USA
Khanh Tuoc Trinh, Ph.D., New Zealand
Bich Lien Nguyen, B.A. Edu., USA
Mui Dinh, B.A. Edu., Australia
Tuan Sy Bui. Ph.D, MBA, MSCIS, USA
Duong Thanh Tran, B.A.Edu, New Zealand
Chau Bich Bui, M.A., USA
Nga Thien Nguyen, B.S. Comp., New Zealand
Thi Nhung Do, B.A. Edu., USA
The Hung Nguyen, Ph.D., Uni of Danang, Vietnam
Hung Nguyen, B.E. Chem., Australia
Tara T. VanToai, Ph.D., USA
Norman N. VanToai, Ph.D., USA
Ngoc Diep Vuong, M.Com.,Economics, USA
Thanh Truc Vuong, B.A.Edu, USA
Long Phan Pham, P.E, Viet Ecology Foundation, USA
Quyet Vu, M.A.Edu., USA
Marie Dung Burns, M.A. Edu., New Zealand
Lieu Thu Le, B.E. Chem, New Zealand
Ngoc Bich Becker, MTA. CANDMED, Germany
Van Hao Nguyen, M.E. Civil, Australia
Thi Tinh Tien Le, M.Com, Economics, Australia
Mong Trinh Thi Nguyen, B.A, New Zealand
Thomas Hung Ngoc Dang, M.B.A, CPEng, Australia Khanh
Nguyen-Do, Ph.D., Australia
Kim Ngoc Truong, B.E. Chem, USA
Disguised and fabricated map of China without the countries of South East Asia
True regional map of South East Asia
Phía tạp chí Ý đã trả lời:
Dear Hung Nguyen,
Thank you for your e-mail. The Editor in Chief is evaluating the matter as a priority and will publish a note on the next issue of our Journal.
Best regards,
Managing Editorial Office
Waste Management
Nguôn: Mr. Do
Thế lưỡng nan của ASEAN ở Biển Đông
ASEAN’s dilemma in South China Sea
Michael Richardson Straits Times (Singapore) July 4, 2011 http://www.viet-studies.info/kinhte/ASEAN_Dilemma_trans.htm
Các đòi hỏi xung khắc nhau của Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Á về việc kiểm soát các khu vực rộng lớn của biển Đông có thủy sản có giá trị và dầu mỏ, khí thiên nhiên và tài nguyên khoáng sản dưới đáy biển, đã thu hút Mỹ và các cường quốc bên ngoài khác vào cuộc tranh chấp này.
Nước nào trong các nước có can dự vào trường tranh đua này sẽ thắng thế, và bằng cách nào? Hay các tay chơi chính sẽ rụt lại sự đối đầu để tiếp tục nền hòa bình và thương mại đã thúc đẩy châu Á đi đầu trong tăng trưởng kinh tế toàn cầu ?
Quyền lợi được hay thua là rất cao. Mối quan hệ Trung Quốc-Mỹ là một trụ cột của sự ổn định châu Á. Tranh chấp Biển Đông là một phép thử các quan hệ trong tương lai giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Sự gắn kết của ASEAN cũng đang được thử nghiệm trong cuộc đấu đá giữa siêu cường quân sự hàng đầu và gã khổng lồ khu vực đang trỗi dậy.
Trung Quốc đang phô trương sức mạnh cơ bắp của họ bởi vì nước này nói rằng họ có chủ quyền không thể tranh cãi trên các nhóm đảo chính ở Biển Đông và quyền tài phán trên các vùng biển xung quanh, và rằng các quốc gia Đông Nam Á dẫn đầu là Việt Nam và Philippines đang ăn cắp một lượng lớn khí đốt, dầu và thuỷ sản mà đúng lẽ là thuộc về Trung Quốc.
Bắc Kinh đã cảnh báo rằng việc này phải chấm dứt. Chủ nghĩa dân tộc trong số các bên tranh chấp chủ yếu đang cháy bùng cảm xúc.
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton vào ngày 23 tháng 6 xác định lại vị thế chính thức của Washington sau cuộc hội đàm với đối tác Albert del Rosario của Philippines . Ông này nói với bà rằng kể từ tháng Hai, đã có tới 9 lần “xâm nhập gây hấn” của Trung Quốc trong vùng biển thuộc biển Đông do Philippines tuyên bố chủ quyền. Việt Nam cũng đã có các khiếu nại tương tự.
Bà Clinton nói rằng Washington không đứng về bên nào trong các tranh chấp biên giới biển và lãnh hải ở biển Đông nhưng phản đối việc sử dụng hoặc đe dọa vũ lực để thúc đẩy những đòi hỏi chủ quyền của bất kì bên nào.
Bà nói thêm rằng Hoa Kì có “một lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải, tôn trọng luật pháp quốc tế, và giao thương hợp pháp không bị cản trở, trong vùng biển Đông. Chúng tôi chia sẻ những lợi ích không chỉ với các thành viên ASEAN nhưng với các quốc gia hàng hải khác trong cộng đồng quốc tế rộng lớn hơn “.
Đó là lập trường chính thức Mỹ. Tuy nhiên, cựu phụ tá ngoại trưởng Nicholas Burns gần đây đã đưa ra một cái nhìn bộc trực trong cách đánh giá thực sự của Washington khi Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào chuẩn bị trao đòn xeo quyền lực cho một thế hệ lãnh đạo trẻ hơn năm tới.
Ông Burns nói rằng Washington thấy sự rối rắm không phải từ thế hệ ông Hồ Cẩm Đào mà từ thế hệ dân tộc chủ nghĩa hơn sẽ sớm lên nắm quyền lực.
“Tôi nghĩ có một sự đồng thuận rằng Trung Quốc là một mối đe dọa tiềm năng …và rằng nếu Trung Quốc sẽ trỗi dậy với việc hiện đại hóa quân sự lớn một cách bất thường, và thấy có tình trạng hỗn loạn ở châu Á và một sự giảm sút hoặc rút lui của Mỹ và … một hệ thống liên minh tàn lụi, thì Trung Quốc có thể bị cám dỗ để tìm kiếm sự thống trị quân sự.”
Ông Burns nói rằng ông không có ý nói về sự thống trị thực dân, nhưng “khả năng đe dọa, thứ hành vi của Trung Quốc mà chúng ta đã thấy ở ASEAN (Diễn đàn khu vực về an ninh) mùa hè năm ngoái trên biển Động, một nước Trung Quốc đi quá trớn.”
Mặt khác, nếu Mỹ “có thể giữ nguyên vị thế của mình ở châu Á, vẫn duy trì sức mạnh quân sự chủ yếu của nó thông qua hệ thống đồng minh của mình, và cũng bao gồm luôn Ấn Độ trong một mối quan hệ đối tác chiến lược mới ở Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, có nhiều khả năng hơn nữa khi Trung Quốc trỗi dậy giữa một biển dân chủ đầy các cường quốc dân chủ, thì sẽ là hoà bình “.
Sự đồng thuận Washington do ông Burns nêu ra là nhất quán với các hành động của Mỹ. Trong tháng vừa qua, chính quyền Obama đã tái khẳng định một cách rõ ràng cam kết của mình với các đồng minh chủ chốt châu Á là Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines. Họ cũng đã làm điều tương tự với Australia.
Bộ Tư lệnhThái Bình Dương Mỹ đã tổ chức các cưộc tập trận huấn luyện trong vùng biển Đông với Philippines và một số nước Đông Nam Á khác. Trong khi đó, Washington đã củng cố quan hệ chiến lược với Việt Nam.
Mỹ cũng đã đồng ý với Nhật Bản đưa Ấn Độ vào một cuộc đối thoại an ninh ba bên, trên cơ sở Ấn Độ có các lợi ích thương mại và hải quân đang tăng lên tại các tuyến đường biển bận rộn xuyên qua biển Đông và New Delhi quan tâm đến cách hành xử của Trung Quốc ở đây như là một dấu hiệu về cách mà Bắc Kinh sẽ hành xử như thế nào trong tranh chấp biên giới Trung-Ấn.
Tuy nhiên, có dấu hiệu đáng lo ngại rằng Trung Quốc tin rằng các động thái này của Mỹ, đồng minh và bạn bè chỉ là trò tháu cáy và rằng cán cân quyền lực trong vùng biển Đông sẽ nghiêng về phía Trung Quốc mà không gì ngăn cản được vì giao thương và các liên kết khác đang lớn mạnh của Trung Quốc với Đông Nam Á mang thêm đòn xeo.
Các quốc gia ASEAN có thể phải đối mặt với một sự lựa chọn đau đớn. Họ sẽ xuống nước nhân nhượng, và do đó làm táo tợn hơn một Trung Quốc ngày càng có thế lực, là một phần không thể tách rời của châu Á, hay họ sẽ dựa vào các đảm bảo ngoại giao và trợ giúp chiến lược tương đối yếu và bị phân tâm từ các cường quốc ngoài khu vực như Mỹ và Nhật Bản.
NGỌC PHƯƠNG NAM
BỘ HỒ SƠ ĐÈN BIỂN – MINH CHỨNG CHO CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA
BienDong.Net: Vừa qua trên truyền hình Thông Tấn xã Việt Nam có phát một phóng sự về việc ông Nguyễn Thái Phong đã hiến tặng cho Chính phủ Hà Nội tập “Hồ sơ đèn biển ở miền Trung Việt Nam” của Pháp về hệ thống đèn biển ở miền Trung Việt Nam, trong đó có đèn biển trên đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Hiện ông Nguyễn Thái Phong đang sống cùng con cháu ở địa chỉ 16/33 Nguyễn Đức Cảnh, TP. Hải Phòng, trước đây ông Phong công tác tại Cục bảo đảm an toàn Hàng hải Việt Nam.
Theo lời kể của ông Phong, năm 1976 trong một chuyến đi công tác phía Nam khảo sát bến bãi ở Đà Nẵng và Quy Nhơn, ông đã gặp 1 người đồng nghiệp, qua nói chuyện thấy ông là người am hiểu về biển đảo và cũng có tâm huyết với biển đảo, nên người bạn đó đã giao cho ông tập tài liệu “Hồ sơ đèn biển ở miền Trung Việt Nam” của Pháp và chỉ nhắn lại 1 câu là“Paracel là quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam đấy”. Ông Phong đã giữ tập tài liệu, vật kỷ niệm của một ông bạn gặp trên đường đi công tác từ ngày đấy đến nay.
Ông Phong đã đọc đi đọc lại cẩn thận những nội dung ghi trong tập tài liệu này và nhận thấy đây là bộ tài liệu rất có giá trị liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa nên ông đã giữ gìn cẩn thận. Ông Phong kể rằng ông đã cất công đi nhiều nơi tìm đến những cơ quan có liên quan để trao tặng bộ tài liệu này, nhưng không đơn vị nào tiếp nhận. Tháng 7/2013, nhờ xem truyền hình, ông Phong biết được Ủy Ban biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao là nơi tiếp nhận những tài liệu liên quan đến chủ quyền biển đảo Việt Nam và ông đã quyết định trao tặng tập tài liệu “Hồ sơ đèn biển ở miền Trung Việt Nam” mà ông đã gìn giữ trong suốt hơn 30 chục năm nay
Tập tài liệu “Hồ sơ đèn biển ở miền Trung Việt Nam” là tài liệu gốc bằng tiếng Pháp, ghi năm 1950, trên bìa có đóng dấu tiếng Pháp màu đỏ và chữ ký, gồm 36 trang kể cả trang bìa. Nội dung ghi chép trong tài liệu này là các tờ khai theo mẫu về thông số kỹ thuật của 33 phao tiêu và đèn biển thuộc 10 khu vực ở miền Trung Việt Nam. Đặc biệt, tại trang ghi số 306 là lý lịch và thông số kỹ thuật của đèn biển trên đảo Pattle (Hoàng Sa) được viết tay bằng mực tím, có bản đồ và sơ đồ minh hoạ.
Kèm theo trong cuốn tài liệu này có một sơ đồ chỉ rõ vị trí xây dựng đèn biển ở đảo Hoàng Sa và một bản đồ quần đảo Hoàng Sa, bên cạnh có hình vẽ thiết kế thể hiện hình dáng và chiều cao đèn biển Hoàng Sa.
Mặc dù một số trang của cuốn tài liệu này đã mủn rách, ố màu và nhòe chữ do thời gian, nhưng các chi tiết liên quan đến đèn biển Hoàng Sa vẫn cho thấy được thiết kế chi tiết về cây đèn biển quan trọng này.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, Pháp nhân danh Việt Nam thực thi chủ quyền và quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo các tài liệu lịch sử, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa gồm nhiều bãi ngầm rất nguy hiểm cho tàu thuyền qua lại trên Biển Đông. Pháp đã cho xây dựng đèn biển này vừa để đánh dấu điểm Tây Nam của đảo Hoàng Sa vừa để đảm bảo cho tàu thuyền qua lại vùng biển này tránh được những tai nạn rủi ro. Theo nhiều tài liệu còn ghi chép trước khi cho thi công xây dựng đèn biển tại Hoàng Sa, Pháp đã cử kỹ sư công trình Gauthier ra quần đảo Hoàng Sa nghiên cứu vị trí xây dựng đèn biển. Đèn biển trên đảo Hoàng Sa thuộc quần đảo Hoàng Sa đã được khởi công xây dựng từ năm 1937 và hoàn thành năm 1938. Pháp đã khai thác và quản lý khá hiệu quả cây đèn biển này phục vụ cho an toàn hàng hải qua khu vực quần đảo Hoàng Sa. Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa quản lý từ vĩ tuyến 17o. Cây đèn biển này nằm ở vị trí 16o32‘2 nên thuộc quyền quản lý và khai thác của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Người bạn trao cho ông Phong Tập tài liệu “Hồ sơ đèn biển ở miền Trung Việt Nam” chắc là một người lính của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã có mối liên hệ với cây đèn biển này khi Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đang quản lý nó.
Trong Tập tài liệu “Hồ sơ đèn biển ở miền Trung Việt Nam” đã nêu rõ đèn biển trên được đặt tại vị trí có tọa độ 16o32‘2 Vĩ Bắc, 111o35‘8 Kinh Đông, phía Tây Nam của đảo Pattle (Hoàng Sa) thuộc nhóm Lưỡi Liềm, trong quần đảo Hoàng Sa. Đèn do Công ty Barbier, Bénard et Turenne, có trụ sở tại Paris xây dựng tháng 10/1937.
Theo hồ sơ thiết kế, đèn biển là một cột kim loại bốn góc đặt trên khối bê tông, có chiều cao 17m60 tính từ móng. Đèn được đốt bằng ga xúc tác, phát ra ánh sáng trắng chiếu khắp xung quanh; nhấp nháy phát ánh sáng 8 giây/lần. Tàu thuyền có thể thấy tín hiệu đèn từ khoảng cách 14 dặm (khoảng 22,5 km); đài quan sát đặt ở độ cao 4m50. Sở Hải đăng Hải Phòng phụ trách việc bảo trì và quản lý đèn biển này.
Dưới thời Pháp thuộc, Chính quyền Pháp đã nhân danh Việt Nam thực hiện quyền quản lý đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hồ sơ chi tiết về đèn biển tại Hoàng Sa do ôngNguyễn Thái Phong hiến tặng cho Chính phủ Hà Nội là một tài liệu quan trọng khẳng định việc Pháp đã tiến hành xây dựng và quản lý đèn biển tại Hoàng Sa. Đây là một bằng chứng xác thực nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việc làm của ông Nguyễn Thái Phong cho thấy ý thức về chủ quyền biển đảo của người dân rất cao, đồng thời thể hiện rõ mong muốn của mỗi người dân Việt muốn sớm đòi lại quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm bất hợp pháp năm 1974. Chính quyền Hà Nội cần sử dụng có hiệu quả những tài liệu này, xây dựng hồ sơ pháp lý đưa ra Tòa án quốc tế vấn đề quần đảo Hoàng Sa. Đây là biện pháp tốt nhất để có thể giành lại Hoàng Sa từ tay kẻ cướp. Đến nay, quần đảo này đã bị Bắc Kinh xâm chiếm 40 năm. Nếu Chính quyền Hà Nội không sớm đưa vấn đề này ra Tòa án quốc tế thì sau 10 năm nữa sẽ không thể làm được nữa.
Thời gian gần đây, Chính phủ Hà Nội đã có nhiều việc làm tích cực trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước như tích cực sưu tầm, tìm kiếm những tư liệu về chủ quyền biển đảo Việt Nam; tổ chức cho người Việt Nam ở nước ngoài đi thăm quần đảo Trường Sa… Là một người Việt sống xa đất nước tôi muốn viết lại những gì đã được nghe về cây đèn biển này để bà con ta sống ở khắp nơi trên thế giới nếu có được những tài liệu liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì hãy cùng lên tiếng để khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với 2 quần đảo này, tặng lại cho Chính phủ Hà Nội để bổ sung vào hồ sơ pháp lý đòi lại quần đảo Hoàng Sa thân yêu của chúng ta.
BDN
( Nguồn: Văn đàn NNB)