Nguyễn Huệ (
chữ Hán: 阮惠;
1753 –
1792), còn được biết đến là
Quang Trung Hoàng đế (光中皇帝),
vua Quang Trung hay
Bắc Bình Vương (北平王), là vị
hoàng đế thứ hai của
nhà Tây Sơn (ở ngôi từ 1788 tới 1792) sau Thái Đức Hoàng đế
Nguyễn Nhạc. Ông là một trong những lãnh đạo chính trị tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong
lịch sử
Việt Nam trong cuộc nội chiến và cả khi chống giặc ngoại xâm. Do có
nhiều công lao, Nguyễn Huệ cũng được xem là người anh hùng áo vải của
dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi
Anh em Tây Sơn, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc
nội chiến kéo dài giữa hai tập đoàn phong kiến
Trịnh ở phía bắc và
Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng
nhà Hậu Lê. Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn là người đánh bại các cuộc xâm lược
Đại Việt của
Xiêm La từ phía nam, của
Đại Thanh (Trung Quốc) từ phía bắc; đồng thời còn là người đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ xây dựng Đại Việt.
[1]
Sau 20 năm liên tục chinh chiến và trị quốc, Nguyễn Huệ lâm bệnh và đột ngột
qua đời ở tuổi 40. Sau cái chết của ông,
nhà Tây Sơn
suy yếu nhanh chóng. Những người kế thừa ông không đủ bản lĩnh để lãnh
đạo Đại Việt, lâm vào mâu thuẫn nội bộ và thất bại trong việc tiếp tục
chống lại kẻ thù của Tây Sơn. Cuộc đời hoạt động của Nguyễn Huệ được một
số sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất
đất nước của triều đại Tây Sơn.
[2]
Cuộc đời ông được biết đến qua các bộ sử của
nhà Hậu Lê và
nhà Nguyễn, các sử gia
cận đại,
hiện đại và cả trong
văn học dân gian.
Thân thế
Nguồn gốc dòng Tây Sơn
Có giả thuyết cho rằng tổ tiên nhà Tây Sơn vốn
họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh
Nghệ An, dòng dõi
Hồ Quý Ly.
[3] Họ theo chân
chúa Nguyễn vào lập nghiệp
miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê - Trịnh tới
Nghệ An
(năm 1655). Ông cố (cụ nội) của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp
việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn, tức
An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở
ấp Tây Sơn,
cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con
gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái
mình từ họ Hồ sang
họ Nguyễn của mẹ.
[4]
Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát
đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ
khi mới vào Nam.
[3][4][5]
Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai:
Nguyễn Văn Nhạc,
Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753. Ông còn có tên là
Quang Bình (光平),
[6] Văn Huệ (文惠)
[7] hay
Hồ Thơm. Sau này, người dân địa phương thường gọi ông là
Đức ông Bình[8] hoặc
Đức ông Tám.
[3]
Về thứ tự của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ trong các anh em, các nguồn tài liệu ghi không thống nhất:
- Các sách Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam chính biên liệt truyện, Tây Sơn thuỷ mạt khảo đều thống nhất ngôi thứ trong ba anh em Tây Sơn đã khẳng định rằng: "Con trưởng là Nhạc, kế là Lữ, kế nữa là Huệ".
- Dân phủ Quy Nhơn xưa truyền lại rằng: Nguyễn Nhạc thuở đi buôn trầu
nên gọi anh Hai Trầu; Nguyễn Huệ còn có tên là Thơm nên gọi là chú Ba Thơm; Nguyễn Lữ gọi là thầy Tư Lữ[a].
- Theo thư từ của các giáo sĩ phương Tây hoạt động ở Đại Việt
khi đó như Labartette, Eyet và Varen thì Nguyễn Huệ là em của Nguyễn
Lữ. Nguyễn Lữ được gọi là Đức Ông Bảy còn Nguyễn Huệ là Đức Ông Tám.
- Lê Trọng Hàm trong sách Minh đô sử lại cho rằng Hồ Phi Phúc sinh "Nhạc, Lữ đến hai cô con gái rồi đến Huệ".
Lớn lên, ông và Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ được đưa đến thụ giáo cả văn lẫn võ với thầy
Trương Văn Hiến. Trương Văn Hiến là môn khách của
Trương Văn Hạnh, còn Trương Văn Hạnh là thầy dạy của
Nguyễn Phúc Luân - cha của Nguyễn Ánh. Sau khi Trương Văn Hạnh bị quyền thần
Trương Phúc Loan
hãm hại, Trương Văn Hiến chạy vào Bình Định. Chính người thầy này đã
phát hiện được khả năng của Nguyễn Huệ và khuyên bảo ba anh em khởi
nghĩa để xây dựng đại nghiệp. Tương truyền câu sấm "Tây khởi nghĩa, Bắc
thu công" là của Trương Văn Hiến.
[9] Tương truyền Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ đều là những người rất giỏi võ nghệ và là những người khai sáng ra một số
võ phái Bình Định. Nguyễn Huệ khai sáng
Yến phi quyền, Nguyễn Lữ sáng tạo
Hùng kê quyền, và cả ba anh em Tây Sơn sáng tạo
Độc lư thương. Tây Sơn tam kiệt có vai trò rất lớn cho sự hình thành, phát triển
võ phái Tây Sơn Bình Định, là những đầu lĩnh sáng tạo, cải cách các bài quyền, bài binh khí để truyền dạy cho ba quân trong giai đoạn đầu khởi nghĩa.
[10]
Tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn
Tham gia khởi nghĩa
-
Ba anh em nhà họ Nguyễn: Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ
Lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn
Nguyễn Phúc Dương[b], Nguyễn Nhạc cất binh khởi nghĩa năm
1771,
xây dựng căn cứ chống chính quyền chúa Nguyễn tại Tây Sơn. Trong giai
đoạn xây dựng thế lực, Nguyễn Huệ đã giúp Nguyễn Nhạc xây dựng kinh tế
và huấn luyện quân sự. Với sự ngầm trợ giúp về mặt tâm lý của thầy giáo
Hiến và bản lĩnh cá nhân, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng xây dựng được uy tín
cho lực lượng Tây Sơn và cả cho cá nhân mình. Chẳng bao lâu sau, lực
lượng của nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi lớn và vững vàng. Những người hợp tác
đầu tiên với nhà Tây Sơn có
Nguyễn Thung,
Bùi Thị Xuân,
Võ Văn Dũng,
Võ Đình Tú,
Trần Quang Diệu,
Trương Mỹ Ngọc,
Võ Xuân Hoài.
Về sau, kẻ sĩ gần xa đến hưởng ứng thêm đông. Lực lượng Tây Sơn không
những đánh đâu thắng đó mà còn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không
tham ô của dân và lấy của người giàu chia cho người nghèo
[11]
Theo
Tây Sơn tiềm long lục của Nguyễn Bá Huân, một danh sĩ người Bình Định (1848-1899) sống thời
nhà Nguyễn, thấy quân Tây Sơn đánh chiếm các huyện, thành, thôn ấp, tuần phủ Quy Nhơn của chúa Nguyễn là
Nguyễn Khắc Tuyên
cùng đề đốc Lý Trình đi đánh dẹp. Quân Khắc Tuyên đến Phù Ly gặp quân
Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy. Hai bên giao chiến, Lý Trình bị Nguyễn
Huệ chém chết, Khắc Tuyên bỏ chạy về Quy Nhơn.
[8] Năm 1773, anh em Tây Sơn hạ được thành Quy Nhơn (kinh thành
Đồ Bàn cũ của
Chiêm Thành). Từ đó, quân Tây Sơn đánh ra các vùng lân cận và tới cuối năm 1773 đã kiểm soát từ
Quy Nhơn đến
Bình Thuận, làm suy yếu chính quyền chúa Nguyễn.
Tái chiếm Phú Yên
Tây Sơn lâm nguy
Không lâu sau khi làm chủ phần lớn khu vực
Nam Trung Bộ, anh em Tây Sơn bắt đầu gặp khó khăn trước những diễn biến mới.
Giữa năm
1774, chúa Nguyễn cử Tống Phúc Hiệp mang quân từ
Gia Định theo hai đường thủy bộ ra đánh Nam Trung bộ, và nhanh chóng lấy lại được Bình Thuận,
Diên Khánh và
Bình Khang. Tây Sơn từ đó chỉ còn làm chủ từ
Phú Yên ra
Quảng Ngãi.
Nhân cơ hội chúa Nguyễn suy yếu, tháng 10 năm 1774, chúa
Trịnh Sâm sai Việp quận công
Hoàng Ngũ Phúc dẫn 3 vạn quân
[12] tiến đánh
Đàng Trong. Quân Trịnh vượt
sông Gianh đánh chiếm
Phú Xuân. Định Vương
Nguyễn Phúc Thuần và các quan phải chạy vào
Quảng Nam, nhưng bị Nguyễn Nhạc mang quân hai đường thủy bộ tiến ra đánh, vội theo đường biển trốn vào
Gia Định, để Nguyễn Phúc Dương ở lại. Tháng 2 năm 1775, quân Trịnh vượt
đèo Hải Vân
đã đụng độ với quân Tây Sơn cũng đang tiến ra để lùng bắt Phúc Dương.
Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, đánh bại quân Tây Sơn ở
Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn, sau khi đã bắt được Phúc Dương.
Lợi dụng Nguyễn Nhạc thua trận, Tống Phúc Hiệp từ Bình Khang tiến ra
đánh Phú Yên, quân Tây Sơn thua trận phải co về Quy Nhơn. Phần lãnh thổ
mà anh em Tây Sơn còn kiểm soát chỉ còn
Quy Nhơn và
Quảng Ngãi.
Tình thế của quân Tây Sơn lúc đó rất nguy ngập, nếu mang quân ra
đương đầu với cả hai phía thì chắc chắn Tây Sơn sẽ bị tiêu diệt. Nguyễn
Nhạc quyết định xin giảng hoà với chúa Trịnh để tập trung vào chiến
trường phía nam, bèn sai người đến chỗ
Hoàng Ngũ Phúc
xin đầu hàng và làm tiên phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn.
Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ Nguyễn nên nhân danh
chúa Trịnh thuận cho Nguyễn Nhạc hàng, phong làm "Tây Sơn trưởng hiệu
tráng tiết tướng quân". Dù thế, Hoàng Ngũ Phúc vẫn không cho lui quân,
đóng sát địa giới Quảng Ngãi, có ý chờ nếu Tây Sơn bại trận sẽ tiến vào
chiếm Quảng Ngãi và Quy Nhơn.
[13]
Xuất quân thắng trận
Tạm yên phía bắc nhưng Tây Sơn vẫn còn ở vào tình thế nguy hiểm, chỉ có một lựa chọn là phải thắng trận để chiếm lại
Phú Yên từ tay quân Nguyễn, nếu không sẽ bị quân Trịnh đánh từ phía sau.
Trong tình thế các tướng đều bạc nhược do thua trận,
Nguyễn Nhạc
quyết định cử Nguyễn Huệ khi đó mới 23 tuổi, làm chủ tướng mang quân
vào Nam. Để hỗ trợ cho Nguyễn Huệ, nhân nắm con bài Nguyễn Phúc Dương
trong tay, Nguyễn Nhạc gả con gái cho Dương, rồi sai người vào Phú Yên
điều đình với Tống Phúc Hiệp bàn việc lập Phúc Dương làm chúa và cùng
đánh Trịnh. Việc đàm phán đến nửa chừng thì Nguyễn Huệ kéo quân tới đánh
khiến Hiệp không kịp trở tay.
[14] Nguyễn Huệ bắt sống Nguyễn Khoa Kiên, giết Nguyễn Văn Hiền, riêng Hiệp chạy thoát. Tướng của chúa Nguyễn ở Bình Khang là
Bùi Công Kế mang quân ra cứu bị Nguyễn Huệ bắt sống. Tướng chúa Nguyễn khác là Tống Văn Khôi ở
Khánh Hoà ra đánh cũng bị Nguyễn Huệ giết tại trận.
Hoàng Ngũ Phúc nhân lúc Tây Sơn mang quân vào Nam liền lấn tới đóng quân ở
Châu Ổ thuộc
Quảng Ngãi,
nhưng sau khi nghe tin Nguyễn Huệ thắng trận không dám tiến nữa. Để
tăng thêm thanh thế, Nguyễn Nhạc yêu cầu quận Việp phong chức cho em.
Quận Việp phong Nguyễn Huệ làm
"Tây Sơn hiệu tiền tướng quân". Ít lâu sau vì tuổi già sức yếu, quận Việp bỏ Quảng Nam lui về
Phú Xuân rồi giao lại thành này cho các tướng dưới quyền, còn mình dẫn đại quân về Bắc.
Nhân lúc quân Trịnh rút khỏi
Quảng Nam,
các tướng cũ của họ Nguyễn lại nổi dậy chiếm nơi này. Nguyễn Nhạc bèn
điều Nguyễn Huệ từ Phú Yên ra đánh tan quân Nguyễn, lấy lại Quảng Nam.
Chiến thắng Phú Yên là dấu ấn đầu tiên của Nguyễn Huệ trên con đường
binh nghiệp của ông sau này. Từ đây ông trở thành chỗ dựa vững chắc cho
nhà Tây Sơn.
Tiến công Gia Định
Những chiến dịch tấn công
Gia Định
của Tây Sơn đều là những chiến dịch lớn. Ngoại trừ lần đầu tiên mang
tính đánh tập kích do Nguyễn Lữ chỉ huy, những chiến dịch sau đều có quy
mô lớn và có vai trò tham gia then chốt của Nguyễn Huệ. Oanh liệt hơn
cả là trận đánh năm 1777.
Nguyễn Huệ ra Bắc để lại tướng người Hoa là
Lý Tài giữ thành Phú Yên. Tài bất mãn
[15]
vì mất chức chánh tướng về tay Nguyễn Huệ nên nghe theo lời dụ của Tống
Phúc Hiệp, sang hàng chúa Nguyễn. Để chia thế quân Nguyễn, đầu năm
1776, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ mang quân theo đường thuỷ vào đánh Gia
Định. Nguyễn Lữ liền thu hết kho tàng của chúa Nguyễn rồi rút về Quy
Nhơn. Tháng 10 năm 1776, Nguyễn Phúc Dương bỏ trốn từ Quy Nhơn về Gia
Định, gọi Lý Tài làm vây cánh. Đỗ Thanh Nhân không thừa nhận một hàng
tướng từ Tây Sơn thế là ông nhục mạ Lý Tài, bị nhục Lý Tài chiêu mộ lính
rồi đánh nhau với Đỗ Thanh Nhân.
[16]
Nhân thua bỏ Gia Định về Ba Giòng. Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường
ngôi cho Nguyễn Phúc Dương làm Tân chính vương, còn Nguyễn Phúc Thuần
làm Thái thượng vương, Lý Tài trở thành Bảo giá Đại tướng quân.
[17]
Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Nhạc lại cử Nguyễn Huệ làm tướng mang thủy quân vào đánh Gia Định.
[17] Lý Tài thua trận bỏ chạy khỏi thành và đưa 2 chúa Nguyễn về
Hóc Môn. Sau Lý Tài rút khỏi Hóc Môn về Ba Giồng
[18] bị Đỗ Thanh Nhân đón đường giết chết. Nguyễn Phúc Thuần theo Đỗ Thanh Nhân giữ
Tranh Giang, Nguyễn Phúc Dương theo tướng Trương Phúc Thận giữ
Tài Phụ. Nguyễn Huệ chia đường đánh bại cả hai cánh quân Nguyễn. Nguyễn Phúc Thuần và Đỗ Thanh Nhân phải bỏ chạy về
Cần Thơ cầu viện Tổng binh
Hà Tiên là
Mạc Thiên Tứ, còn Nguyễn Phúc Dương bỏ chạy về Ba Việt (
Bến Tre).
Nguyễn Huệ đánh bại
Mạc Thiên Tứ. Nguyễn Phúc Thuần sai Đỗ Thanh Nhân lẻn ra
Bình Thuận
cầu cứu Chu Văn Tiếp, Trần Văn Thức. Nguyễn Nhạc nhân lúc Nguyễn Huệ
thắng trận ở Nam Bộ cũng cử binh đánh Phú Yên, Bình Thuận. Trần Văn Thức
chưa ra khỏi Bình Thuận đã bị quân Tây Sơn giết chết, Chu Văn Tiếp bỏ
chạy. Nguyễn Nhạc chiếm lại Phú Yên đến Bình Thuận.
Tháng 9 năm 1777, Nguyễn Huệ mang quân bao vây tấn công Ba Việt, bắt
sống Nguyễn Phúc Dương và toàn bộ quân tướng. Dương và 18 tướng tuỳ tùng
bị đưa về Gia Định xử tử (vào tháng 10 năm 1777).
[19] Nguyễn Phúc Thuần bại trận bỏ
Cần Thơ sang
Long Xuyên, định chờ Mạc Thiên Tứ lấy tàu để chạy sang
Trung Quốc cầu viện
nhà Thanh[20] nhưng bị quân Tây Sơn đuổi đến nơi, bắt được Nguyễn Phúc Thuần mang về Gia Định xử tử tháng 10 năm 1777.
Nguyễn Ánh, Đỗ Thanh Nhân và Mạc Thiên Tứ trốn thoát mỗi người một nơi.
Như vậy trong vòng 7 tháng, Nguyễn Huệ đánh thắng và bắt giết được cả
2 chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn từ chỗ bị dồn về Quy Nhơn đã chủ động giành
lại không những Nam Trung Bộ mà cả Nam Bộ, tiêu diệt chính quyền chúa
Nguyễn.
Sau khi Nguyễn Huệ rút đại quân về, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế
(1778), niên hiệu là Thái Đức, ông phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương
tướng quân.
[21] Các tướng họ Nguyễn lại lập Nguyễn Ánh làm chúa, chiếm lại Gia Định. Được các lực lượng phương Tây như
Pháp,
Bồ Đào Nha giúp sức,
[22] Nguyễn Ánh lại mạnh lên. Thái Đức hoàng đế sai tướng vào đánh nhưng lại bị thua và mất thêm Bình Thuận.
Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thuỷ bộ Nam
tiến, phá tan quân Nguyễn, giết chết cai cơ người Pháp là Manuel (Mạn
Hoè). Nguyễn Ánh bỏ chạy về
Hậu Giang. Vua
Thái Đức chiếm lại
Nam bộ, sai người giao hảo với
Chân Lạp (
Campuchia) và đề nghị hợp tác đánh Nguyễn Ánh. Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu viện
Xiêm La của Nguyễn Ánh và suýt bắt được ông.
[23] Nguyễn Ánh trốn ra đảo
Phú Quốc.
Anh em Tây Sơn rút quân về Bắc, Chu Văn Tiếp lại từ Bình Thuận mang
quân vào đánh chiếm được Gia Định và đón Nguyễn Ánh trở về. Tháng 2 năm
1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân Nam tiến. Dù
Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước
[24]
vẫn bị quân Tây Sơn phá tan và Ánh buộc phải bỏ chạy về Đồng Tuyên.
Nguyễn Huệ đánh phá Đồng Tuyên, Nguyễn Ánh lại bỏ chạy ra Hà Tiên rồi
trốn ra đảo Phú Quốc. Tháng 8 năm 1783, quân Tây Sơn truy kích, Nguyễn
Ánh chạy một vòng ra các
đảo Cổ Long,
Cổ Cốt
rồi lại quay về Phú Quốc. Quân Tây Sơn vây đánh nhưng lúc đó có bão
biển, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra, sau 7 ngày đêm lênh đênh trên
biển, Nguyễn Ánh thừa cơ lại trốn thoát, chạy hẳn ra đảo
Thổ Chu cách xa đất liền rồi đầu năm sau tự mình sang Xiêm cầu viện.
Trận Rạch Gầm - Xoài Mút
Tượng đài kỷ niệm chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút trong khu di tích lịch sử Rạch Gầm-Xoài Mút, Mỹ Tho
Đạn dược sử dụng trong thời Tây Sơn
-
Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh sang Xiêm La hội kiến với vua Xiêm La là
Chất Tri (Chakri, Rama I) tại
Vọng Các
(Bangkok). Vua Xiêm sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn
quân thủy cùng 300 chiếc thuyền sang giúp. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ
tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, nhưng thực chất ý
đồ nhằm tạo gọng kìm phía tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn.
[25] Quân Xiêm nhanh chóng lấy được
Rạch Giá,
Ba Thắc,
Trà Ôn,
Mân Thít,
Sa Đéc, ra tay cướp phá bừa bãi.
[25] Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là phò mã
Trương Văn Đa[h],
thấy quân Xiêm thế lực mạnh, bèn cố thủ tại Gia Định và sai người về
Quy Nhơn báo. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.
Sau khi vào Gia Định, Nguyễn Huệ đánh vài trận nhưng không thắng có ý
rút binh nhưng gặp dịp một tướng của Nguyễn Ánh là Lê Xuân Giác về hàng
bày mưu phục binh.
[26] Mưu hợp với Nguyễn Huệ nên ông nghe theo liền cho bố trí trận địa và nhử quân Xiêm đến gần
Rạch Gầm và
Xoài Mút[26] (ở phía trên
Mỹ Tho) để đánh một trận lớn tiêu diệt quân Xiêm.
Đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 (đêm 9 rạng 10 tháng 12 năm Giáp
Thìn), quân Xiêm lợi dụng thủy triều xuôi theo dòng sông để tấn công Mỹ
Tho nhằm phá vỡ đội thuyền phòng thủ của Tây Sơn. Quân Tây Sơn giả thua
rút dần về hướng Mỹ Tho, nhử đối phương lọt vào trận địa mai phục đoạn
Rạch Gầm-Xoài Mút. Quân Xiêm quen mùi thắng nên tiến vào trận mai phục
của Tây Sơn,
[26] khi quân Xiêm lọt vào trận mai phục, bất ngờ quân Tây Sơn sử dụng
pháo bắn uy hiếp dữ dội ở
cù lao Thới Sơn và bờ
sông Tiền, khóa chặt hai đầu, dồn quân Xiêm vào thế "tiến thoái lưỡng nan". Bên cạnh đó,
hỏa hổ
ở hai bên bờ nã đạn tới tấp vào đội hình làm quân Xiêm rối loạn, tinh
thần hoang mang rồi bỏ chạy. Cùng lúc đó, một đội thuyền cảm tử chở đầy
rơm
và những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào thuyền quân Xiêm làm cho số bị
chìm, số bị cháy. Trong khi đó, cánh quân bộ Xiêm La ngay từ đầu đã bị
quân Tây Sơn chặn đánh không cho cứu viện.
Một trận quyết chiến diễn ra trong không đầy một ngày đã tiêu diệt gần như hoàn toàn 2 vạn quân Xiêm,
[25] số còn sống sót chỉ được vài nghìn người
[26]
chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Cánh quân bộ nghe tin thất
trận cũng tan rã và tháo chạy. Nhị vương Xiêm La Chiêu Tăng, Chiêu Sương
chạy theo đường bộ về Xiêm; còn Nguyễn Ánh phải chạy ra
đảo Thổ Chu rồi về Cổ Cốt được Cai cơ Trung đón sang Xiêm.
[26]
Sau trận đánh này, quân Xiêm khiếp đảm trước sức mạnh của Tây Sơn, "sợ Tây Sơn như sợ cọp".
[26] Đánh dẹp xong, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để đô đốc là Đặng Văn Trấn ở lại trấn đất Gia Định.
Tiêu diệt chính quyền chúa Trịnh
Đánh chiếm Phú Xuân
Tại
Bắc Hà, năm 1782, Tĩnh Đô vương
Trịnh Sâm qua đời, thế tử
Trịnh Cán được lập làm Điện Đô vương. Phe của người con lớn
[g] là
Trịnh Tông làm binh biến, giết quan phụ chính là quận Huy
Hoàng Tố Lý (cháu lão tướng
Hoàng Ngũ Phúc) đưa Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam vương (1782-1786). Một tướng theo phe quận Huy là
Nguyễn Hữu Chỉnh không hợp tác với Trịnh Tông, bỏ chạy vào Nam hàng Tây Sơn và được Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm.
[27]
Bắc Hà ngày một suy yếu. Nguyễn Nhạc quyết định đánh chiếm Phú Xuân
(đất cũ của chúa Nguyễn). Năm 1786, Nguyễn Huệ được cử làm tổng chỉ huy
cùng Nguyễn Lữ đánh ra Bắc.
Nguyễn Ánh khi đang lưu vong ở Xiêm La năm 1783
Về phía Trịnh, sau khi nhận hàng Nguyễn Nhạc, lão tướng Hoàng Ngũ Phúc rút đại quân về Bắc (1775), để lại
Phạm Ngô Cầu và
Hoàng Đình Thể giữ thành Phú Xuân. Sau đó không lâu, Hoàng Ngũ Phúc qua đời.
Nguyễn Huệ lập kế lung lạc chủ tướng Phạm Ngô Cầu. Nguyễn Hữu Chỉnh
lại dùng kế ly gián Phạm Ngô Cầu và phó tướng Hoàng Đình Thể. Quân Tây
Sơn bất ngờ đánh úp thành Phú Xuân. Phạm Ngô Cầu bỏ mặc Hoàng Đình Thể
chết trận và quyết định dâng thành hàng Tây Sơn.
[28] Trong khi đó thì Nguyễn Lữ đem quân thủy đánh xong các đồn từ sông Gianh trở vào (xem thêm bài về nhà
Tây Sơn và
Nguyễn Lữ).
Tiến ra Thăng Long
-
Do sự thuyết phục của
Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ quyết định đem quân ra Bắc đánh
Thăng Long để diệt họ Trịnh dù chưa được lệnh của vua anh
Nguyễn Nhạc.
Với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", Nguyễn Huệ sai Nguyễn Hữu Chỉnh
làm tiên phong Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng tan vỡ, các danh
tướng phần nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ đã khiếp sợ, đến khi nghe
quân Tây Sơn kéo ra đa số bỏ trốn. Chúa Trịnh bỏ thành Thăng Long chạy
và bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải,
Trịnh Tông đã tự sát.
Nguyễn Huệ vào thành
Thăng Long yết kiến vua
Lê Hiển Tông.
Tuy về danh nghĩa Nguyễn Huệ trao trả quyền chính lại cho vua Lê và
nhận phong Nguyên súy Dực chính phù vận Uy quốc công, nhưng trong thực
tế ông nắm toàn bộ quyền chính ở Bắc Hà. Do sự sắp xếp của Nguyễn Hữu
Chỉnh, vua Lê Hiển Tông gả công chúa
Lê Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.
Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Thể theo ý kiến của công chúa Ngọc Hân thiên về lập hoàng thân
Lê Duy Cận (anh Ngọc Hân), Nguyễn Huệ muốn tôn lập Duy Cận làm vua.
[29] Tuy vậy, do áp lực của tôn thất
nhà Lê đối với Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đành thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, đó là vua
Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng
Nguyễn Nhạc rút quân về Nam.
Bất hòa với vua anh
-
Về Nam Hà, Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía nam ra làm 3:
[30]
- Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Qui Nhơn.
- Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định.
- Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất Thuận Hóa trở ra đèo Hải Vân.
Mâu thuẫn của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ ngày càng lớn. Vua Tây Sơn vốn không có ý đánh ra Bắc Hà,
[31] chỉ muốn chiếm Nam Hà;
[32]
việc Huệ đánh Bắc Hà là trái ý Nguyễn Nhạc, lại thấy Nguyễn Huệ ở Bắc
Hà lâu quá sau khi thắng nên Nguyễn Nhạc đâm ra lo sợ vì khó kiềm chế
được Nguyễn Huệ.
Nguyễn Nhạc tuyển một đội lính hộ tống đi ra Bắc và đòi Nguyễn Huệ về. Dù chính Nguyễn Huệ đã ra tận ngoài cửa ô tiếp đón,
[33] cả hai cùng đi triều kiến vua Lê rồi về Nam
[31] nhưng Nguyễn Nhạc vẫn chưa bằng lòng.
Tới Phú Xuân, Nguyễn Huệ ở lại còn Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn.
Nguyễn Nhạc đưa ra nhiều đòi hỏi tỏ uy quyền mà Nguyễn Huệ từ chối: bắt
Nguyễn Huệ đi chầu, nộp chiến lợi phẩm và nộp đất Quảng Nam..
[33] Nguyễn Huệ tỏ ra chống đối Nguyễn Nhạc và binh lính lại rất trung thành với ông.
[32] Nguyễn Nhạc phẫn chí, giết công thần
Nguyễn Thung, hiếp vợ Nguyễn Huệ.
[32][34]
Nguyễn Huệ chiếm nốt kho
vàng của Tây Sơn ở Quy Nhơn để vận hành chiến tranh, thế là chiến tranh xảy ra.
[35] Nguyễn Huệ đánh nhau với Nguyễn Nhạc trong vài tháng đầu năm 1787, ông tổng động viên chừng 6 vạn tới 10 vạn quân.
[35] Họ đánh nhau dữ dội và sau đó Nguyễn Huệ tiến đến vây
thành Quy Nhơn, đắp thành đất, bắn
đại bác vào thành.
Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải vào đền thờ cha mẹ khóc rồi kêu
Đặng Văn Chân từ Gia Định về cứu nhưng quân Đặng Văn Chân tới nơi lại bị Nguyễn Huệ đánh tan, buộc Đặng Văn Chân phải tới hàng.
[36] Tuy quân của Nguyễn Huệ trong các cuộc công thành thương vong đến phân nửa
[36] nhưng tình thế buộc Nguyễn Nhạc phải lên mặt thành khóc xin em
"Nỡ lòng nào mà nồi da xáo thịt như thế".
[37] Nguyễn Huệ nể tình anh em, thôi hãm thành và bằng lòng giảng hòa với vua anh, rồi rút về Thuận Hóa
[37]
Lưỡng đầu thọ địch
-
Tái hiện Lễ đăng quang của Hoàng đế Quang Trung tại Núi Bân
Sự xung đột, bất hòa giữa hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ khiến kẻ địch lợi dụng ở cả hai miền Nam Bắc.
Ở
Bắc Hà, sau khi quân Tây Sơn rút đi, các thế lực của
chúa Trịnh trỗi dậy lập
Trịnh Bồng lên ngôi vương, tái lập chính quyền chúa Trịnh. Vua
Lê Chiêu Thống mời
Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn ở
Nghệ An
ra dẹp Trịnh Bồng. Nguyễn Hữu Chỉnh nhanh chóng đánh tan quân Trịnh,
đốt phủ chúa, Trịnh Bồng bỏ đi mất tích. Nguyễn Hữu Chỉnh nhân lúc Tây
Sơn có biến bèn chuyên quyền, muốn chống lại Tây Sơn.
Trong khi đó tại miền Nam, giữa năm
1787,
Nguyễn Ánh từ Xiêm quay trở lại Gia Định. Nguyễn Lữ bỏ Phạm Văn Tham
một mình chiến đấu với quân Nguyễn và tự ý rút về Quy Nhơn (xem thêm bài
Nguyễn Lữ).
Trước tình hình Nam, Bắc đều có biến, Nguyễn Huệ quyết định giải quyết vấn đề phía bắc trước. Ông phái
Vũ Văn Nhậm,
con rể của Nguyễn Nhạc, ra tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Tuy nhiên, tình
hình vẫn không sáng sủa, đến lượt Vũ Văn Nhậm chuyên quyền và có ý chống
Nguyễn Huệ. Tháng 4 năm 1788, Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô lưu vong,
Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần thứ hai nhằm giết Vũ Văn Nhậm. Ông
đã tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, mời các danh sĩ có tên tuổi
như
Ngô Thì Nhậm,
Phan Huy Ích và Đại tư mã
Ngô Văn Sở đảm đương công việc. Sau khi đã lập Sùng nhượng công
Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn Huệ lại rút quân về
Phú Xuân vì tình hình chiến trường Nam Bộ rất gay go.
Phạm Văn Tham không chống nổi các tướng của Nguyễn Ánh, thành Gia
Định thất thủ và sau đó ông liên tiếp thua trận. Nguyễn Nhạc tuổi cao
lắm bệnh, bất lực không thể cứu ứng Nam Bộ, xin nhường ngôi hoàng đế,
đất đai và binh quyền cho Nguyễn Huệ và thỉnh cầu ông vào cứu. Để chuẩn
bị Nam tiến, Nguyễn Huệ tổng động viên binh lính ở
Thuận Hoá, ngày đêm tập luyện. Tuy nhiên, khi ông chưa kịp tiến vào Nam thì lại nghe tin
nhà Thanh nghe lời Lê Chiêu Thống cầu viện, sai
Tôn Sĩ Nghị mang 29 vạn quân và dân công
[38][39] vượt
ải Nam Quan vào Đại Việt. Các tướng giữ Bắc Hà của ông lui về giữ
Biện Sơn cố thủ.
Nguyễn Huệ đứng trước hai lựa chọn: Nam tiến hoặc Bắc tiến. Cả hai
mặt trận đều nước sôi lửa bỏng và cần đến ông, tuy nhiên, nếu ông quá sa
vào một mặt trận thì mặt trận kia sẽ vỡ. Mặc dù nhận thức được quân Mãn
Thanh phía bắc là nguy cơ lớn hơn và gấp gáp hơn nhưng Nguyễn Huệ không
thể đánh địch theo chiến thuật trường kỳ như triều đại
nhà Lý,
nhà Trần trước đó đã làm để chống
quân phương Bắc. Vì vậy ông quyết định chọn cách đánh thần tốc để sớm giải quyết chiến trường miền Bắc.
Sau khi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, ngay hôm sau
ông cất đại quân ra Bắc. Ngay trước khi đi, ông sai một bầy tôi tin cẩn
là Diệm cầm thư của ông vào Nam dặn tướng Phạm Văn Tham cố phòng thủ chờ
tiếp viện.
[40]
Chiến thắng Kỷ Dậu (1789)
-
Thần tốc bắc tiến
Lê Chiêu Thống chạy sang
Trung Quốc, cầu viện hoàng đế nhà Thanh là
Càn Long. Cuối năm 1788,
Càn Long sai Tổng đốc
Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa "phù Lê", vào chiếm đóng
Thăng Long.
Đền Quán Cháo ở
phòng tuyến Tam Điệp nơi gắn với câu chuyện người con gái dâng cháo cho nghĩa quân Tây Sơn
Khu tượng đài Quang Trung tại Gò Đống Đa.
Gươm và súng của quân đội nhà Tây Sơn.
Quân Tây Sơn do Đại tư mã
Ngô Văn Sở, theo mưu kế của
Ngô Thì Nhậm,
[41][42] Phan Huy Ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở
Tam Điệp -
Biện Sơn cố thủ chờ lệnh.
[43]
Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm
Mậu Thân (
22 tháng 12 năm 1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra
Bắc Hà. Để lấy danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi
Hoàng đế, lấy niên hiệu
Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (
26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới
Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên tới 10 vạn,
[44][45] tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra còn có một đội
tượng binh gồm 200
voi
chiến. Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích
lệ tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân
xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra
Bắc Hà.
Tôn Sĩ Nghị coi thường quân Tây Sơn, sau nghe lời các tướng của Chiêu
Thống thì có lo đôi phần, hẹn mồng 6 Tết ra quân đánh Tây Sơn.
Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (
15 tháng 1 năm
1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến
Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung hẹn ba quân ngày mồng 7 Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn
Tết ở Thăng Long.
Quang Trung chia quân làm 5 đạo. Một cánh do
đô đốc Long chỉ huy từ làng Nhân Mục tập kích đồn
Khương Thượng và phía tây Thăng Long. Cánh
đô đốc Bảo
tiến đánh các đồn phía nam Thăng Long. Trung quân do đích thân Quang
Trung chỉ huy, phối hợp với đô đốc Bảo đánh diệt các đồn phía nam Thăng
Long. Cánh
đô đốc Tuyết và
đô đốc Lộc theo đường biển ra Bắc, chặn đường lui của địch ở phía bắc
sông Nhị Hà và huyện
Phượng Nhãn.
Đêm 30 tháng Chạp
âm lịch, quân Tây Sơn đánh diệt đồn
Gián Khẩu của các tướng Lê Chiêu Thống. Sau đó Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn
Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là
Ngọc Hồi
nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám
đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh
quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn
Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn lính bỏ mạng. Chủ tướng
Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn,
[46] có
đa mọc um tùm nên gọi là
gò Đống Đa.
Đô đốc Long tiến vào đánh phá quân địch phòng thủ ở
Tây Long.
Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc
Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua
chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết.
[47] Trong khi Quang Trung chưa đánh
Ngọc Hồi
thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng
sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn
Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều
làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị
hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả
chạy về. Lê Chiêu Thống hớt hải chạy theo Nghị thoát sang bên kia biên
giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới đến
khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Trung Quốc
ở biên giới dắt nhau chạy làm cho suốt vài chục dặm không có người.
[48][49]
Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh
tan quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết, Quang Trung tiến vào thành Thăng Long
trong sự chào đón của nhân dân.
Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó trong một bài thơ
[cần dẫn nguồn]:
“ |
- Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
- Quân vua một giận oai bốn phương
- Thần tốc ruỗi dài xông thẳng tới,
- Như trên trời xuống dám ai đương
- Một trận rồng lửa giặc tan tành,
- Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh
- Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
- Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh
- Mây tạnh mù tan trời lại sáng
- Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
- Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
- "Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta"
|
” |
Giai thoại về việc ra quân
Tương truyền,
[50] trước khi ra quân đánh quân Thanh, tại lễ đăng quang ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ lập kế để động viên quân sĩ.
Sau lúc làm lễ, Quang Trung sai mang đến cái mâm, trên để các đồng tiền, có phủ vải điều, rồi tuyên bố với quân sĩ:
- Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng tiền này đều
sấp, thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Nhược bằng, có đồng
ngửa, thì đó là đại sự của chúng ta có điều trắc trở.
Nguyễn Huệ chắp tay khấn vái, đặng bưng mâm tiền, cung kính dâng lên
cao, rồi hất tung xuống sân. Quân sĩ thấy các đồng tiền nhất loạt đều
sấp, reo hò mừng rỡ, tin chắc trận ra bắc sẽ thắng quân Thanh.
Kỳ thực, Nguyễn Huệ đã sai đúc 200 đồng tiền có cả 2 mặt đều là mặt sấp.
Chính sách thời hậu chiến
Bang giao với nhà Thanh
Cháu của Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Hiển, đang trình hòa ước lên các quan nhà Thanh
-
Ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu, Quang Trung vội trở lại Phú Xuân để lo việc diệt Nguyễn Ánh, ông trao lại binh quyền cho
Ngô Văn Sở và
Ngô Thì Nhậm.
Từ trước khi giao chiến với quân Thanh, Quang Trung đã tính đến chiến
lược ngoại giao với nhà Thanh. Theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại
giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, Tây Sơn nhanh chóng bình thường hóa
bang giao với phương Bắc. Vua Càn Long nhà Thanh đã cho sứ giả sang Đại
Việt phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang
triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của Càn Long.
Tháng 1 năm 1790, theo phương kế của Ngô Thì Nhậm,
[51] Quang Trung sai người đóng giả làm mình cầm đầu đoàn sứ gồm 150 người sang Yên Kinh (
Bắc Kinh sau này) triều kiến Càn Long. Các tài liệu ghi khác nhau về nhân vật đóng giả Quang Trung. Theo
Hoàng Lê nhất thống chí và
Việt Nam Sử Lược, người đóng Nguyễn Huệ tên là Phạm Công Trị,
[52] cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu; theo
Đại Nam chính biên liệt truyện
thì người đó là tướng Nguyễn Quang Thực người Nghệ An. Mục đích của
đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu
Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến
trường
Đại Việt, bị Quang Trung mua chuộc đứng sau lưng đoàn sứ bộ,
[53] nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải là Nguyễn Huệ, nhưng vì ngại gây hấn nên không nói ra.
[51] Vua
Càn Long đón tiếp trọng thể đoàn sứ bộ An Nam. Theo
"Đại Thanh thực lục", nhà Thanh chi phí cho sứ đoàn mỗi ngày hết 4.000 lạng bạc (tổng cộng lên đến 800.000 tính cho tới khi sứ đoàn về).
[54] Càn Long làm thơ, như sau:
“ |
-
-
- Doanh phiên nhập chúc trị thì tuần
- Sơ kiến hồn như cựu thức thân
- Y cổ vị văn lai Tượng quốc
- Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân
- Cửu kinh nhu viễn chi trùng dịch
- Gia hội ư kim miễn thể nhân
- Vũ yển văn tu thuận thiên đạo
- Đại Thanh tộ vĩnh vạn thiên xuân.
Tạm dịch là:
-
- Nước phiên đến lúc ta đi tuần
- Mới gặp mà như đã rất thân
- Nước Tượng chưa từng nghe triều cận
- Việc cống người vàng thật đáng khinh
- Nhà Thanh coi trọng việc đi sứ
- Chín đạo thường có đạo vỗ yên
- Xếp võ tu văn thuận thiên đạo
- Đại Thanh còn mãi vạn ngàn xuân.
|
” |
Phan Huy Ích tham gia sứ bộ cũng làm thơ có câu:
“ |
- Phiên quốc phụng thám tàn
- Ky đắc kỳ tao ngộ
- Phi tiên báo quốc nhân
- Hoàng hoa đệ nhất bộ
- Dịch:
- Các nước phiên sang chầu
- Mấy ai được như thế
- Báo tin về nước ta
- Sứ bộ mình là nhất
|
” |
Tới tháng 11 năm 1790, đoàn sứ bộ trở về Thăng Long.
Theo các nhà nghiên cứu,
[51]
phái bộ này đã có ảnh hưởng tới thái độ của nhà Thanh đối với Lê Duy
Kỳ. Sang năm 1791, nhà Thanh sai phân tán các quan lại cũ của nhà Lê đi
các nơi để tách biệt không liên lạc được với nhau và cô lập Lê Duy Kỳ;
bản thân Duy Kỳ bị giam lỏng ở "Tây An Nam dinh" tại Yên Kinh và sau ốm
mà chết yểu.
Nhà Tây Sơn chính thức nhận được sự công nhận của
nhà Thanh.
Quang Trung không chỉ muốn hòa hoãn với Càn Long mà còn muốn xuất
quân đánh nhà Thanh. Trước khi tính chuyện đánh Thanh, nhà vua cho quấy
rối nội địa
Trung Quốc bằng cách lợi dụng đảng "
Thiên Địa Hội" khiêu khích người Thanh. Các biên thần nhà Thanh như
Phúc Khang An (mới thay
Tôn Sĩ Nghị) tuy biết rõ Tây Sơn có
bí mật nhúng tay, nhưng cũng chịu nhịn cho qua chuyện.
[53] Ông cũng cầu hôn với công chúa Thanh và xin đất Lưỡng Quảng để thử ý vua Thanh.
[57] Dù vậy ý định này không kịp trở thành hiện thực do cái chết đột ngột của ông.
[57]
Sắp đặt đơn vị hành chính
-
Quang Trung chia vùng cai quản thuộc đất nhà Lê cũ thành các xứ (trấn) như sau:
[58]
- Xứ Đông (Hải Dương)
- Xứ Bắc (Kinh Bắc)
- Xứ Đoài (Sơn Tây)
- Xứ Yên Quảng
- Xứ Lạng (Lạng Sơn)
- Xứ Thái (Thái Nguyên)
- Xứ Tuyên (Tuyên Quang)
- Xứ Hưng (Hưng Hóa)
- Xứ Nghệ (Nghệ An và Hà Tĩnh)
- Sơn Nam Thượng (Hà Đông và Hà Nam)
- Sơn Nam Hạ (Nam Định và Thái Bình)
- Thanh Hóa ngoại (Ninh Bình)
- Thanh Hóa nội (Thanh Hóa).
Ngoài ra, vùng đất Quang Trung quản lý còn có
Thuận Hóa và
Quảng Nam. Trừ
Xứ Sơn Nam
và Thanh Hóa tách làm hai, các xứ khác đều đại thể giữ nguyên như thời
Hậu Lê. Trước kia Phố Hiến là lỵ sở của Sơn Nam, tới thời Quang Trung
thì Hạ Trấn đóng ở Vị Hoàng, cách dưới phố Hiến.
[58]
Trong các trấn trên thì các trấn Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang,
Hưng Hóa, Thái Nguyên và Yên Quảng là ngoại trấn; các trấn Thanh Hóa
ngoại, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Hải Dương và Phụng Thiên là
nội trấn.
[58]
Mỗi xứ (trấn) chia làm nhiều phủ, mỗi phủ chia làm nhiều huyện, mỗi
huyện chia làm nhiều tổng, mỗi tổng chia làm nhiều xã, mỗi xã lại chia
nhiều thôn. Thành Thăng Long gồm 1 phủ, 2 huyện, 18 phường.
[58]
Tổ chức bộ máy
Ấn tín của Quang Trung
Bộ máy hành chính thời Quang Trung gồm:
Tam công, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại Tư đồ, Đại Tư khấu, Đại Tư mã,
Đại Tư không, Đại Tư Lệ, Thái úy, Ngự úy, Đại Tổng quản, Đại Đô hộ, Đại
đô đốc, Đô đốc, Nội hầu, Hộ giá, Điểm kiểm, Chỉ huy sứ, Đô ty, Đô úy,
Trung úy, Vệ Úy, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung Thư lệnh, Phụng Chính, Thị
Trung đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Lục Bộ Thượng thư, Tả - Hữu đồng
nghi, Tả - Hữu phụng nghi, Thị Lang, Tư vụ, Hàn Lâm...
[59][60]
Mỗi trấn đặt một trấn thủ về hàng võ và một hiệp trấn về hàng văn.
[60] Mỗi huyện đặt một văn phân tri, một võ phân suất, một tả quản lý và một hữu quản lý.
[60] Công việc của quan văn là trưng đốc binh lương, xét xử từ tụng.
[59] Phận sự của quan võ là coi quản và thao diễn quân lính từ Đạo đến Cơ, từ Cơ đến Đội.
[59]
Trong các xã, thôn thì có xã trưởng, thôn trưởng. Hàng tổng thì đặt
Tổng trưởng (như chức Chánh Tổng về sau) để giữ việc hành chính trong
một tổng.
[59] Ông đồng thời cũng cho soạn một bộ luật tên là "Hình luật thư", nhưng chưa xong thì ông đột ngột mất nên mãi không hoàn thành.
[61]
Thu hút nhân tài
Để phát triển quốc gia, Quang Trung rất chú trọng thu dụng các nhân tài từng phục vụ nhà Lê. Ông ban "Chiếu cầu hiền" có đoạn:
“ |
- "Trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, thức ngủ mong mỏi mà có người tài
cao học rộng chưa từng thấy đến. Hay Trẫm ít đức không đáng để phò tá
chăng? hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự?... Trẫm nơm nớp lo
nghĩ, một ngày hai ngày cũng có hàng vạn sự việc nảy sinh Ngẫm cho kỹ:
cái nhà to lớn - sức một cây không dễ gì chống đỡ, sự nghiệp thái bình -
sức một người không thể đảm đương".
|
” |
—Quang Trung
|
Các cựu thần
nhà Lê cũ, tiêu biểu là các tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Nễ, Nguyễn Huy Lượng,
Bùi Dương Lịch... đã ra giúp nhà Tây Sơn. Danh sĩ
Nguyễn Thiếp sau nhiều lần từ chối, cuối cùng cũng nhận lời xuống núi giúp vua Quang Trung.
Giáo dục
-
Chiếu chỉ của Quang Trung ra năm 1792 về việc dịch sách chữ Hán sang chữ Nôm.
Quang Trung bỏ
Hán ngữ như là
ngôn ngữ chính thức trong các văn bản của quốc gia. Ngôn ngữ chính thức được sử dụng là
tiếng Việt và được viết trong các văn kiện hành chính bằng hệ thống
chữ Nôm.
[62]
Quang Trung quy định các bài hịch, chiếu chỉ phải soạn bằng chữ Nôm; đề
thi viết bằng chữ Nôm, và các sĩ tử phải làm bài bằng chữ Nôm. Ông còn
chủ trương thay toàn bộ sách học chữ Hán sang chữ Nôm nên năm 1791 đã
cho lập "Sùng chính viện" để dịch kinh sách từ Hán sang Nôm.
[62]
Theo sách
Tây Sơn lược thuật, ông chọn một quan văn
"5 ngày một lần vào cấm cung để giảng giải kinh sách".
[62] Ngoài ra, Quang Trung quan tâm đưa việc học đến tận thôn xã. Trong
"Chiếu lập học" ông lệnh cho các xã::
[62]"Phải chọn Nho sĩ bản địa có học thức, có hạnh kiểm đặt làm thầy dạy, giảng tập cho học trò".
Tôn giáo
Quang Trung có một chính sách tôn giáo rất tự do và rộng rãi:
[63] dù là người đề cao Nho giáo nhưng ông vẫn bảo đảm hoạt động cho các tôn giáo khác như Phật giáo và các tín ngưỡng khác. Về
Công giáo, các giáo sĩ tự do hoạt động, truyền đạo, xây dựng nhà thờ.
[63]
Nhưng đồng thời ông cũng thi hành chính sách bài trừ mê tín dị đoan rất
mạnh, chấn chỉnh lại việc tu hành: nhiều chùa ở các làng có mà người tu
hành lạm dụng để truyền bá mê tín dị đoan bị đập bỏ để xây duy nhất một
ngôi chùa ở huyện cấp trên,
[64] đồng thời những người tu hành không đạo đức, những kẻ lưu manh, lười biếng đều phải hoàn tục.
[63]
Kinh tế
-
Đồng tiền cổ với bốn chữ "Quang Trung thông bảo"
Đồng tiền cổ với bốn chữ "Quang Trung đại bảo"
Một mặt lo chống thù trong giặc ngoài, mặt khác vua Quang Trung rất
quan tâm tới việc xây dựng đất nước. Vua phân phối đất đai cho những
người nông dân nghèo, thúc đẩy
thủ công nghiệp từng bị cấm trước kia.
Vua Quang Trung không đi theo con đường "trọng nông ức thương" của tư
tưởng Nho Giáo, ông có chủ trương đề cao thương nghiệp và mở rộng quan
hệ buôn bán giữa Đại Việt với nước ngoài.
[65] Năm 1790, ông thương thuyết với nhà Thanh để mở một thương điếm tại
Nam Ninh (
Quảng Tây) mua bán hàng hoá giữa hai nước.
[65] Ông khuyến khích giao thương giữa các thuyền của thương thuyền nước ngoài và các thương thuyền của Đại Việt.
[65]
Quang Trung có một chính sách thuế đơn giản với thuế ruộng là chính:
ruộng chia ra làm ba hạng để đánh thuế nhất đẳng điền (150 bát thóc),
nhị đẳng điền (80 bát thóc), tam đẳng điền (50 bát thóc). Lại thu tiền
thập vật, mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khố mỗi mẫu 50 đồng. Ruộng tư
điền cũng đánh thuế: nhất đẳng điền mỗi mẫu nộp 40 bát thóc, nhị đẳng
điền mỗi mẫu 30 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 20 bát. Tiền thập vật cũng
theo như ruộng công điền, còn tiền khoán khố thì mỗi mẫu phải nộp 30
đồng
[66] Các loại thuế khác như thuế điệu, thuế nhân đinh được giảm để giảm bớt gánh nặng của dân chúng và phòng ngừa tham nhũng.
[65]
Quản lý nhân khẩu
Dưới triều Quang Trung, việc quản lý nhân khẩu bắt đầu được thực hiện. Năm
1790, ông cho lập sổ theo dõi nhân khẩu (hay hộ khẩu).
[54] Người dân được phân 4 hạng theo lứa tuổi:
[54] 9-17 tuổi là hạng "vị cập cách"; 18-55 tuổi là hạng "tráng"; 55-60 tuổi là hạng "lão"; 60 tuổi trở lên là hạng "lão nhiêu".
[64] Ông còn cho làm thẻ bài "Thiên hạ đại tín" bằng gỗ có khắc họ tên,
[67] quê quán của người mang không phân biệt giàu sang nghèo hèn.
[54][67]
Kế hoạch Nam tiến dở dang
Kế hoạch Nam tiến
Mặc dù đã đại thắng quân Mãn Thanh nhưng sau đó Quang Trung vẫn phải
lo ổn định tình hình Bắc Hà do tàn dư của nhà Lê còn sót lại. Trong khi
đó, Nguyễn Ánh được người Pháp hỗ trợ kéo ra đánh Bình Thuận, Bình
Khang, Diên Khánh, quân của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc liên tiếp bại trận
và mất mấy thành này. Cho tới năm 1791, Nguyễn Nhạc chỉ còn cai quản
Quy Nhơn, Phú Yên và Quảng Ngãi.
Sau khi ổn định tình hình
Bắc Hà, Quang Trung quyết tâm tiêu diệt
Nguyễn Ánh.
Ông ra sức trấn an Nguyễn Nhạc và nhân dân trong vùng do Nguyễn Nhạc
cai quản để chuẩn bị Nam tiến. Theo nhiều nhà nghiên cứu, việc Quang
Trung sai
Vũ Văn Dũng đi "xin" Càn Long đất
Quảng Đông,
Quảng Tây thực ra chỉ là một thủ thuật về
chính trị. Quang Trung không có dụng tâm lấy đất
Trung Quốc
vì ông biết thực lực không thể, hay ít ra là chưa thể làm lúc đó. Hơn
nữa, ông thu dụng quân lục lâm "Tàu ô", sai đánh phá biên giới Trung
Quốc cốt để nhà Thanh bị cuốn vào hoạt động
ngoại giao và chống giặc cướp để cho ông có thời gian hỗ trợ vua anh dồn lực lượng vào chiến trường miền Nam mà thôi.
[68] Để chuẩn bị phối hợp với Quang Trung, năm 1792, Nguyễn Nhạc đóng nhiều tàu thuyền đóng ở
cửa Thi Nại để Nam tiến. Nhưng lúc đó là mùa
gió nồm chỉ thuận cho quân Nam ra, phải đợi đến mùa đông mới thuận gió cho quân Tây Sơn vào. Nguyễn Ánh thừa dịp cùng quân
Pháp,
Bồ Đào Nha đánh úp cửa Thi Nại, đốt cháy nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Tây Sơn vương không phòng bị, lại phải thu quân về
Quy Nhơn.
Để báo thù trận đó, Quang Trung dự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn 20
[69]-30 vạn
[70] quân thuỷ bộ, chia làm ba đường:
- Nguyễn Nhạc và quân "Tàu ô" (hải tặc Trung Hoa) cùng theo đường bộ từ Phú Yên vào đánh Gia Định
- Quân bộ của Quang Trung từ Phú Xuân đi thẳng qua lãnh thổ Vạn Tượng tới Nam Vang (Chân Lạp), từ đó cùng quân Chân Lạp kéo về Gia Định, bao bọc đường chạy của Nguyễn Ánh không cho sang Xiêm
- Quân thuỷ của Quang Trung sẽ tiến vào đón lõng tận Hà Tiên đổ bộ lên đất liền để ngăn Nguyễn Ánh chạy ra biển.
Lo việc hậu thế
Chính các
giáo sĩ
Pháp giúp Nguyễn Ánh lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Nguyễn Ánh khó
lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Tuy nhiên trong khi chờ gió đổi
chiều thì cái chết đột ngột vì lo lắng cho cuộc viễn chinh
[71] của Quang Trung vào tháng 9 dương lịch năm 1792 khiến kế hoạch Nam tiến này không bao giờ trở thành hiện thực.
Tương truyền, vào một buổi chiều đầu thu năm
1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, nhà vua cho triệu trấn thủ
Nghệ An là
Trần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra
Phượng Hoàng Trung Đô.
Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã nguy kịch. Trước
khi mất, nhà vua đã căn dặn Trần Quang Diệu và các quần thần:
[72]
“ |
Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử[f] tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định là quốc thù, mà Thái Đức
thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về
sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm
lao thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh
Đô[k] để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn thân!" |
” |
Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (
16 tháng 9 năm
1792), vào khoảng 11-12 giờ đêm, Quang Trung Nguyễn Huệ qua đời, ở ngôi được 4 năm, hưởng thọ 40 tuổi, miếu hiệu là
Thái Tổ Vũ hoàng đế.
[72] Thời điểm mất của vua Quang Trung được các tài liệu cổ ghi khác nhau. Sách
Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn ghi ông mất tháng 7 âm lịch năm 1792,
Hoàng Lê nhất thống chí ghi ông mất tháng 8 âm lịch năm 1792. Theo lý giải của
Hoàng Xuân Hãn trong
La Sơn phu tử,
cả hai sách ghi đều không sai. Quang Trung mất vào khoảng 11 giờ đêm
ngày 29 tháng 7 âm lịch, khoảng đó là giờ tý, nghĩa là bắt đầu được tính
sang hôm sau; mà tháng 7 năm đó là
tháng thiếu, ngày 29 là ngày
cuối tháng, nên sau 11 giờ đêm đã chuyển sang tháng 8. Theo Hoàng Xuân
Hãn: "Ghi tháng 7 hay tháng 8 thực ra chỉ chênh nhau khoảng nửa giờ".
[74] Bắc cung hoàng hậu
Lê Ngọc Hân đã viết bài "Tế vua Quang Trung" và bài "Ai Tư Vãn" để bày tỏ nỗi đau khổ và tiếc thương cho người chồng anh hùng sớm ra đi.
Những giả thuyết về cái chết
Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết về cái chết của vua Quang Trung
được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức
thuyết phục.
Áo thêu của Càn Long
Theo
Hoàng Lê nhất thống chí,
[74] khi Quang Trung giả sang Yên Kinh gặp Càn Long, được Càn Long tặng cho chiếc áo, có thêu 7 chữ:
- Xa tâm chiết trục, đa điền thử (車心折軸多田鼠)
Nghĩa là:
- Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng
Theo phép chiết tự, chữ "xa" (車) và chữ "tâm" (心) ghép lại thành chữ
"Huệ" (惠) là tên của Nguyễn Huệ; "chuột" nghĩa là năm tý (Nhâm tý 1792).
Ý của dòng chữ trên áo là Nguyễn Huệ sẽ chết vào năm Tý.
Giả thiết này ý nói rằng: Nguyễn Huệ chết do áo bị yểm bùa.
Thực ra Nguyễn Huệ bị bệnh mà chết
Bệnh
Sách
Ngụy Tây liệt truyện, một tài liệu chính sử của
Sử quán triều Nguyễn ghi giải thích cái chết của vua Quang Trung như sau:
- "Một hôm, về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm, tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng: "Ông cha người sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân Chúa Nguyễn, sao phạm đến lăng tẩm...". Rồi lấy gậy đánh vào trán Quang Trung, mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự lâu lắm... Từ đó, bệnh chuyển nặng..."
Sách
Tây Sơn thực lục cũng có ghi "Huệ mắc bệnh nặng, chữa không khỏi...". Và sau khi Quang Trung mất, vào tháng một năm
Càn Long thứ 58 (1793),
Quách Thế Huân cũng báo cáo với Càn Long: "Quang Trung đã chết vì bệnh".
[55]
Cũng một giả thuyết được truyền lại nhiều nhất là một buổi chiều thu
năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt
mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y
học gọi là
tai biến mạch máu não.
[55][75]
Một giáo sĩ tên Longer, có mặt ở
Đàng Ngoài
vào những thời điểm này, đã viết trong một bức thư đề ngày 21 tháng 12
năm 1792 là vua Quang Trung chết vì bệnh, nhưng không rõ là bệnh gì.
[55]
Các nhà nghiên cứu về sau gạt bỏ các chi tiết mê tín trong
Ngụy Tây liệt truyện thì họ cho rằng Quang Trung đã bị một cơn
tăng huyết áp đột ngột.
[55]
Bác sĩ Bùi Minh Đức qua khảo cứu các nguồn tư liệu lịch sử, kết luận rằng Nguyễn Huệ "
Xuất huyết não dưới màng nhện; nguyên nhân tử vong: do
viêm phổi sặc"
[76]
An táng
-
Viếng Quang Trung
Thi hài Quang Trung được táng ngay tại Phú Xuân, tại một cung điện của ông tên là Đan Dương
[c]. Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, tức là vua
Cảnh Thịnh, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong.
Đô đốc Vũ Văn Dũng đang đi sứ nhà Thanh ở Bắc Kinh, nghe tin Quang Trung mất liền làm bài thơ viếng như sau:
- Bố y phân tích ngũ niên trung
- Mai cố thi vi tự bất đồng
- Thiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷ
- Bất y Đường Tống thuyết anh hùng
- Dịch:
- Năm năm dấy nghiệp tự thân nông
- Thời trước thời sau khó sánh cùng
- Trời để vua ta thêm chục tuổi
- Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng.[77]
Vua
Càn Long
tặng tên hiệu cho ông là Trung Thuần, lại thân làm một bài thơ viếng và
cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Sứ nhà Thanh đến
tận mộ ở Linh Đường (mộ giả) thuộc
huyện Thanh Trì (
Hà Nội) để viếng.
Lăng mộ bị phá
Thời Cảnh Thịnh, triều đình Tây Sơn sinh ra lục đục. Nguyễn Ánh nhân
thời cơ đó kéo ra đánh bại nhà Tây Sơn. Mười năm sau ngày Quang Trung
qua đời, nhà Tây Sơn sụp đổ hoàn toàn (xem thêm bài về nhà
Tây Sơn).
Để trả thù, Nguyễn Ánh sai đào mộ Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc, tán hài
cốt thành bột nhồi thuốc súng bắn và bỏ xương sọ vào vò, giam trong ngục
tối. Người đời thương tiếc nhà Tây Sơn gọi là "Ông Vò".
Nơi đặt lăng mộ của Quang Trung cũng bị san phẳng, không cho để lại
dấu tích, nên sau này có một số nhà nghiên cứu đã dày công tra cứu, khảo
sát, tìm tòi song không thể xác định được mộ vua Quang Trung ở địa điểm
nào
[78]
Khảo sát trong thời gian gần đây của các nhà nghiên cứu đã tìm ra bài thơ
Kiến Quang Trung linh cữu
(Nhìn thấy linh cữu vua Quang Trung) của nhà thơ Lê Triệu (1771-1846),
người sống dưới thời Tây Sơn và thời Nguyễn. Bài thơ nói về cảm xúc của
tác giả khi đứng trước nơi từng là lăng mộ của Quang Trung, chỉ sau mấy
năm bị
Nguyễn Ánh khai quật (theo các nhà nghiên cứu là năm 1801
[79] hay 1802
[80]):
“ |
- Trấp niên sất sá tẩu phong vân
- Như thử anh hùng cổ hãn văn
- Hàm Dã độc Lưu thiên vạn cốt
- "Khuân Sơn" hoạ tại bách niên phần
- Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận
- Cô phụ đường đường bát xích thân
- Quang cảnh nhất ban thành phấn mị
- Linh nhân chung cổ tiếu Doanh Tần!
|
” |
Dịch thơ (Hồng Phi phiên âm và dịch):
“ |
- Bao năm thét mắng át phong vân
- Đủ thấy anh hùng - bậc vĩ nhân
- Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác
- "Khuân Sơn" phần mộ hoạ trăm năm[i]
- Ngậm hờn chỉ trích ngàn thu hận
- Nỡ phụ đường đường tám thước thân
- Quang cảnh thảy đều thành cát bụi
- Khiến đời muôn thuở cợt Doanh Tần![j]
|
” |
Ấp Tây Sơn nơi ông khởi nghĩa cùng vua anh, tới tháng 9 năm 1819, Nguyễn Ánh lệnh đổi thành An Tây, sau đó lại đổi thành An Sơn.
Ông Vò
Trong vòng 20 năm từ 1802 - 1821, đầu lâu của các vua Tây Sơn (Thái
Đức, Quang Trung và Quang Toản) bị bỏ vào 3 cái vò, giam ở nhà Đồ Ngoại,
[81] tức là Võ Khố sau này
[k]
Từ năm 1822 - 1885, các vò bị giam vào Khám đường, ở phía tây bắc kinh thành Huế, khoảng giữa cửa chính Tây và An Hòa.
[81]
Ba chiếc vò bị xiềng và giam riêng, ngăn cách nhau, ngoài có niêm
phong, hàng tháng có đoàn của triều Nguyễn xuống kiểm tra. Ba chiếc vò
được các tù nhân tôn kính gọi là "Ông Vò", còn những người gác ngục gọi
là "chúa ngụy".
[81] Những người sống ở gần Khám đường đều tỏ ra kính cẩn ba Ông Vò, họ thường cúng bái và coi như thần hộ mệnh.
[81]
Năm 1885, kinh thành Huế biến động bởi chiến tranh giữa phe chủ chiến
của nhà Nguyễn với người Pháp, ba chiếc vò bị mất tích. Các nhà nghiên
cứu vẫn tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu về vấn đề này nhưng chưa có kết
luận cuối cùng.
[82]
Theo Báo Đất Việt thì vào đêm 22 rạng 23 tháng năm Ất Dậu (1885),
phòng thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi cùng hoàng gia phải rời khỏi
phòng thành, quân Pháp vào thành. Lúc đó, có người mang 3 vò chạy trốn.
Riêng một vò (sọ vua Quang Trung) được một ông họ Phan, người ở gần Cầu
Ngói đã theo hào, lạch, sông đưa về
Cầu ngói Thanh Toàn.
Cuộc sống cá nhân
Ngoại hình và tính cách
Trong "
Tây sơn thuật lược" (西山述略), người ta miêu tả Nguyễn Huệ "
Tóc
Huệ quăn, mặt mụn đầy, có một con mắt nhỏ, nhưng mà cái tròng rất lạ,
ban đêm ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu...". Sử gia Tạ Chí Đại Trường bình luận "tóc quăn", "mặt mụn", "mắt nhỏ" là dấu vết thân xác; còn "
chuyện
tròng mắt có ánh sáng phát ra, ban đêm soi sáng cả chỗ ngồi là cảm
tưởng của người nhìn khiếp sợ trước oai vũ của "Thượng công""
[83].
Sách
Hoàng Lê Nhất Thống Chí miêu tả anh em Nguyễn Huệ "
trò chuyện, kẻ hỏi người đáp cực kỳ ôn tồn (?) y như anh em các nhà thường dân" khác hẳn kiểu bệ vệ, tôn nghiêm của triều đình
Lê -
Trịnh[84].
Ngoài ra, Hoàng Lê Nhất Thống Chí còn miêu tả Nguyễn Huệ là một người
dễ gần, hay đùa với binh lính. Trong cuộc sống tình cảm cá nhân, giáo sĩ
Labartette mô tả Nguyễn Huệ là người mềm yếu khi mà công chúa
Lê Ngọc Hân thường xuyên ""mếu khóc" vuốt ve tự ái đấng trượng phu" khi muốn đòi hỏi gì đó
[84]; hay Nguyễn Huệ phát cuồng vì có người vợ mất ở
Phú Xuân.
Chính tấm lòng say mê đó đem đổ vào cuộc đời Nguyễn Huệ, vào triều
chính, ở chỗ chiến trường trở thành một sức quyến rũ lôi cuốn người khác
[84]. Về chiến trận, cũng sách này miêu tả Nguyễn Huệ "
...là
bực lão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam thật là
xuất thần quỷ nhập. Không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như
bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám
trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn cả sấm
sét...[84]"
Nguyễn Đình Giản, thuộc quan của
Nguyễn Hữu Chỉnh, khi bàn về Nguyễn Huệ nhận định "
Bắc Bình vương [Nguyễn Huệ] là một tay anh hùng"
[85]. Nguyễn Đình Giản và Phạm Đình Dư, quan nhà Lê, nhận định "
Bắc
Bình vương là người rất quyệt, hay dùng trí thuật lao lung người khác,
trong lúc bàn luận, khi xuống lại nâng lên người ta không biết đâu mà dò". Vị quan khác Trần Công Xán nhận định "
[Nguyễn Huệ là] người huyền bí khó lường"
[85].
Ngay chính sử
nhà Nguyễn cũng phải mô tả "
Nguyễn
Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, giảo,
kiệt, thiện chiến? ai cũng phải sợ... Bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận
đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy dốc lòng
vâng mệnh"
[86].
Gia quyến
Vợ
Các nguồn tài liệu, chủ yếu là
Đại Nam chính biên liệt truyện của
nhà Nguyễn về gia quyến của Nguyễn Huệ, đã ghi nhận ông có ít nhất 6 người vợ trong đó có ba hoàng hậu là:
- Chính cung hoàng hậu
Không rõ Nguyễn Huệ lập gia đình khi nào, nhưng trong những năm tháng
chiến tranh, Nguyễn Huệ đã có một bà vợ, tên là Phạm Thị Liên, quê ở
Quy Nhơn, sinh khoảng năm
1759, là con cùng mẹ khác cha với Thái sư
Bùi Đắc Tuyên. Năm 16 tuổi bà Phạm Thị Liên được Nguyễn Huệ chọn làm vợ. Năm 30 tuổi (
1789) bà được phong làm
Chính cung hoàng hậu,
bà kém Nguyễn Huệ khoảng chừng 5–6 tuổi. Phạm hậu đã có với Nguyễn Huệ 5
con, 3 trai 2 gái. Một trong 3 người con trai được lập thái tử, là
Quang Toản – về sau kế tục sự nghiệp của Quang Trung.
Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một thầy thuốc người phương Tây tên
là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất trước đó, vào
ngày 29 tháng 3 năm
1791.
Trong một bức thư viết ngày 17 tháng 7 năm 1791, giáo sĩ Sécrard đã kể:
"Chánh
hậu của Tiên vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc
bà một cách sầu thảm. Ông đã cử hành tang lễ vô cùng linh đình trang
trọng cho bà vào cuối tháng sáu. Dân Nam Hà đồn khắp nơi rằng ông đã
băng hà vì quá đau buồn".
Hoàng hậu họ Phạm đã gắn bó với Nguyễn Huệ trong những chặng đường
chinh Nam phạt Bắc nên được Nguyễn Huệ rất mực quý trọng yêu thương. Mộ
chôn ở dưới chân núi
Kim Phụng, phía tây thành phố
Huế.
Bà được đặt thụy là
Nhân Cung Ðoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ hoàng hậu.
Theo nguồn tài liệu khác
[87] thì sau khi bà Phạm Thị Liên qua đời, Nguyễn Huệ lấy bà
Bùi Thị Nhạn làm
Chính cung hoàng hậu. Bùi Thị Nhạn người thôn
Xuân Hòa, huyện
Tuy Viễn (nay là
Tây Sơn), tỉnh
Bình Định, là em của
Bùi Đắc Tuyên, cô ruột của nữ tướng
Bùi Thị Xuân và là con gái út của
Bùi Đắc Lương, như vậy bà còn là chị em cùng mẹ với Phạm hậu. Bà là một trong 5 người phụ nữ nổi tiếng thời Tây Sơn được mệnh danh là
Tây Sơn ngũ phụng thư.
Theo giả thuyết này, chính bà Bùi Thị Nhạn mới là mẹ của Nguyễn Quang
Toản, Nguyễn Quang Thiệu và Nguyễn Quang Khanh; còn bà Phạm Thị Liên
lại là mẹ của Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Bàn (nên Quang Thuỳ lớn
hơn Quang Toản). Ngoài ra, bà còn là mẹ của 2 công chúa - trong đó có 1
người lấy
Nguyễn Văn Trị. Bà tự sát năm 1802 khi Cảnh Thịnh thua trận và bà không muốn lọt vào tay quân Nguyễn Ánh.
Cũng theo giả thuyết này, bà lấy Nguyễn Huệ khi ông chưa làm hoàng
đế; còn bà Phạm Thị Liên đã mất sớm vì bệnh khi Quang Thuỳ còn nhỏ.
Như vậy, theo giả thuyết này, hầu hết những người con của bà Phạm Thị
Liên lại là con bà Bùi Thị Nhạn, còn bà Phạm Thị Liên lại là mẹ Quang
Thuỳ.
- Bắc cung hoàng hậu
-
Công chúa
Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua
Lê Hiển Tông.
Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng tư năm Canh Dần (tức 22 tháng 5 năm 1770),
là người có sắc đẹp và nết na hơn cả trong số các công chúa con vua Lê
Hiển Tông. Năm 1786, sau cuộc mai mối chớp nhoáng 3 ngày của
Nguyễn Hữu Chỉnh, lễ cưới Ngọc Hân công chúa và Nguyễn Huệ đã được tổ chức ở
Thăng Long.
Ngọc Hân đã có với Quang Trung hai người con, một trai và một gái:
hoàng tử tên là Nguyễn Quang Đức và công chúa là Nguyễn Thị Ngọc Bảo.
Lúc Ngọc Hân lấy Nguyễn Huệ, bà 16 tuổi còn Nguyễn Huệ đã 33 và cũng đã
có nhiều đời vợ. Sau khi lên ngôi vua, năm 1789, Nguyễn Huệ đã phong bà
làm Bắc cung hoàng hậu. Ngọc Hân mất năm Kỷ Mùi (1799). Hai người con
của bà sau này đều bị triều đình
nhà Nguyễn giết hại.
[8]
- Các bà vợ khác
Ngoài Chính cung hoàng hậu và Bắc cung hoàng hậu, Nguyễn Huệ còn có ít nhất thêm 4 bà vợ nữa.
- Bà mẹ của Nguyễn Quang Thuỳ Có ý kiến cho rằng bà mẹ của
Nguyễn Quang Thuỳ này chính là một nàng hầu. Quang Thuỳ lớn hơn Quang
Toản, nhưng không phải là con của Phạm hoàng hậu và cũng không phải là
con của Ngọc Hân công chúa. Vua Càn Long (nhà Thanh) từng lầm tưởng
Quang Thuỳ là con trưởng của vua Quang Trung khi Thuỳ trong đoàn sứ bộ
sang chúc thọ bát tuần vua Thanh (1790).[8]
- Bà phi họ Lê người Quảng Ngãi:
Bà này có một con trai với vua Quang Trung, cuộc đời của bà đến nay vẫn
không rõ, vị hoàng tử con bà bị Nguyễn Ánh giết năm 1801.[8]
- Bà Trần Thị Quỵ người Quảng Nam:
Không rõ bà Trần Thị Quỵ được Nguyễn Huệ chọn làm thứ phi năm nào và có
con với ông hay không. Tương truyền, trong những ngày Tây Sơn thất thế,
bà bị quân của Nguyễn Ánh bắt được đưa lên bãi cát Kim Bồng chém đầu
rồi thả trôi sông. Thi hài của bà được nhân dân bí mật vớt lên khâm liệm
và mai táng cẩn thận ở cánh đồng thuộc xứ Trà Quân, làng Thanh Đông
(Quảng Nam – Đà Nẵng).[8]
- Bà Nguyễn Thị Bích người Quảng Trị: Bà là con gái út thứ 16 của viên quan nhỏ vào mạt kỳ thời Chúa Nguyễn
ở Phú Xuân. Bà cũng có một con trai với vua Quang Trung. Sau khi triều
Tây Sơn sụp đổ, bà trốn về Vĩnh Ân (nay thuộc xã Cát Hanh huyện Phù Cát
tỉnh Bình Định) để nương thân, lúc chết được chôn ở gò Thỏ, Vĩnh Ân.[8]
Ngoài các bà vợ kể trên, vua Quang Trung còn dự định cầu hôn với công
chúa nhà Thanh nhưng việc không thành vì ông qua đời đột ngột.
[57]
Các con
Theo các nhà nghiên cứu, số con của vua Quang Trung khoảng 20 người
[8][87]
- Nguyễn Quang Toản (sau là Cảnh Thịnh đế - Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
- Nguyễn Quang Bàn (Con bà Phạm Thị Liên)
- Nguyễn Quang Thiệu (Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
- 2 công chúa, trong đó có 1 người lấy Nguyễn Văn Trị (Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
- Nguyễn Quang Khanh (con bà Bùi Thị Nhạn)
- Nguyễn Quang Đức (Con bà Lê Ngọc Hân)
- Công chúa Nguyễn Bảo Ngọc (Con bà Lê Ngọc Hân)
- 1 người con trai con bà phi họ Lê
- 1 người con trai con bà phi Nguyễn Thị Bích
- Nguyễn Quang Thuỳ (Con bà Phạm Thị Liên hoặc 1 nàng hầu)
- Nguyễn Quang Cương (không rõ mẹ)
- Nguyễn Quang Tự (không rõ mẹ)
- Nguyễn Quang Điện (không rõ mẹ)
- Nguyễn Thất (không rõ mẹ)
- Nguyễn Quang Duy: làm chức Thái tể thời Cảnh Thịnh (không rõ mẹ)
- 5 công chúa khác cùng bị bắt với vợ Nguyễn Văn Trị, nhưng sử không
nêu rõ có những người nào chính là người trong số công chúa khác con bà
Phạm Thị Liên, Bùi Thị Nhạn và con bà Ngọc Hân hay không.
Trừ Quang Thuỳ tự vẫn khi Cảnh Thịnh bị bắt, những người còn lại (kể
cả các công chúa - cùng phò mã Nguyễn Văn Trị) đều bị Nguyễn Ánh bắt và
bị hành hình năm 1802.
Nhận định
Tác giả Tạ Trí Đại Trường tổng kết rằng Nguyễn Huệ đã nhận được lời
khen ngợi của không chỉ những người bầy tôi dưới quyền mà ngay cả của
"đám thù nghịch từng chịu điên đảo vì ông"[88]
Chiến tích
Quang Trung Nguyễn Huệ là hoàng đế bách chiến bách thắng, lập nhiều chiến tích quân sự nhất trong
lịch sử Việt Nam. Cả cuộc đời binh nghiệp của ông, dù dưới danh hiệu
Long Nhương tướng quân[e],
Bắc Bình vương hay
hoàng đế Quang Trung, ông đều lập công trạng hiển hách, chưa từng thất bại một trận nào.
[53] Do những chiến tích vang dội, Nguyễn Huệ được các giáo sĩ Tây phương so sánh với
Alexandros Đại đế[89] và
Attila.
[90]
Chính sử của nhà Nguyễn thừa nhận:
“ |
"...quân Xiêm (từ sau khi thua trận Rạch Gầm - Xoài Mút) tuy ngoài miệng thì nói khoác nhưng trong bụng thì sợ Nguyễn Huệ như sợ cọp." |
” |
Gras de Préville, thuyền trưởng tàu Pandour của Pháp ở Gia Định năm 1788 đã viết về Nguyễn Huệ và quân đội của ông như sau:
“ |
"Tây Sơn rất mạnh; quân đội của Nguyễn Huệ nếu không thiện chiến
cũng rất đông; Nguyễn Huệ có voi để kéo pháo, và hơn nữa, Nguyễn Huệ có
rất nhiều thuyền chiến, chiến hạm và tàu thuyền để chở quân đội. Nguyễn
Huệ có nghị lực, có tài năng..."[91] |
” |
Gần như toàn bộ chiến thắng của nhà Tây Sơn đều gắn với tên tuổi ông. Những chiến công nổi bật nhất của Nguyễn Huệ:
Chính trị
Đối nội, đối ngoại
Đối với việc Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc Hà đánh họ Trịnh chuyên
quyền, ông dùng khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh" để tranh thủ sự ủng hộ của
nhân dân Bắc Hà. Khi diệt được họ Trịnh, ông vẫn tôn thờ vua Lê. Việc
làm đó được sử gia Trần Trọng Kim nhận định
"Ấy là đã có sức mạnh mà đã biết làm việc nghĩa vậy"[92].
Cũng theo sử gia Trần Trọng Kim:
"vì vua nhà Lê nhu nhược, triều
thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và
Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn.
Dẫu thế mặc lòng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà
Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông miếu tiền triều; như thế thì cách ở với
nhà Lê không lấy gì làm bạc".[92]
Ngay sau khi đại phá quân Thanh ở
trận Ngọc Hồi - Đống Đa,
vua Quang Trung tìm cách xóa bỏ thù hằn bằng việc chiêu hàng, nuôi
dưỡng hàng vạn tù binh nhà Thanh và thu dọn, cúng tế chiêu hồn quân
Thanh;
[93]
thực thi chính sách hòa giải với cường quốc phương Bắc và triều cống,
xin phong vương. Bằng một kế sách ngoại giao khôn khéo, mua chuộc được
các cận thần nhà Thanh (Phúc Khang An,
Hoà Thân...), Nguyễn Huệ đã được vua Thanh chấp nhận cầu phong để nhà Tây Sơn chính thức thay thế nhà Lê làm chủ Đại Việt.
[94]
Quyền biến
-
Trong thời loạn lạc của Nguyễn Huệ cuối thế kỷ 18 - một trong những
thời kỳ rối ren, nhiều bè phái và phân liệt nhiều nhất trong
lịch sử Việt Nam,
ngoài tàn dư của các lực lượng tồn tại lâu đời, trong quá trình tranh
chấp giữa các phe phái còn nhiều phần tử nảy sinh ý đồ xưng hùng xưng bá
trước những cơ hội do hoàn cảnh mang lại, nhất là khi địa bàn kiểm soát
của ông nằm giữa hai vùng Nam Bộ và Bắc Bộ - đất kiểm soát của các lực
lượng chống đối. Nguyễn Huệ, trong quá trình đánh Nam dẹp Bắc cũng phải
đối phó với những tư tưởng ly khai của các tướng lĩnh dưới quyền, song
ông luôn có cách xử lý chứng tỏ bản lĩnh của một chính trị gia già giặn.
Biết Nguyễn Hữu Chỉnh là người dễ thay lòng đổi dạ nhưng Nguyễn Huệ
vẫn tận dụng tài năng, mưu lược và sự thông thạo đất Bắc Hà của Nguyễn
Hữu Chỉnh để đánh đổ
chúa Trịnh.
Đánh xong họ Trịnh, ông không thẳng tay giết Nguyễn Hữu Chỉnh mà mượn
tay các thế lực thân họ Trịnh cũ (những người đó oán Chỉnh) để giết
Nguyễn Hữu Chỉnh bằng việc cùng vua anh
Nguyễn Nhạc âm thầm rút quân về nam, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại.
Tới khi Nguyễn Hữu Chỉnh lẽo đẽo chạy theo kịp, Nguyễn Huệ không thể bỏ mặc bèn lưu lại ở
Nghệ An cho trấn thủ, chờ biến cố. Lúc Nguyễn Hữu Chỉnh "Phù Lê" đánh được
Trịnh Bồng, ra mặt chống Tây Sơn với việc sai người vào
Phú Xuân đòi ông giao trả đất Nghệ An, ông mới công khai cử binh đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh bị diệt nhanh chóng.
Vũ Văn Nhậm tiếp quản
Thăng Long
từ tay Nguyễn Hữu Chỉnh cũng nảy ý xưng hùng - chuyên quyền và tự ý đúc
ấn riêng. Lúc đó Nguyễn Huệ đã điều bớt binh cho Vũ Văn Nhậm và phải đề
phòng mặt Nam, nên không thể dàn quân đi đánh Vũ Văn Nhậm như đánh
Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông lặng lẽ đi gấp ra Bắc và lập tức trừ khử Vũ Văn
Nhậm.
Hai viên tướng tài có ý đồ chống lại bị loại trừ với những lý do
chính đáng bằng những cách thức không giống nhau, khó lường trước. Các
tướng bên dưới như
Ngô Văn Sở,
Phan Văn Lân
lập tức được đôn lên thay trọng trách. Việc Nguyễn Huệ khiển tướng điều
binh khiến các tướng lĩnh tâm phục và từ đó không còn ai mang ý đồ cát
cứ.
Cai trị
Không chỉ là một viên tướng thiện chiến, Quang Trung còn là một nhà
cai trị tài ba. Ông giỏi chiến thuật quân sự, giỏi về chiến lược ngoại
giao và lại biết thu dụng nhân tài để xây dựng đất nước. Trong ba anh em
Tây Sơn, Nguyễn Huệ không chỉ trội hơn về tài năng quân sự mà ngay cả
trong việc trị nước, ông cũng tỏ ra là người xuất sắc nhất. Sau là một
vài lời nhận xét về công cuộc cai trị của Quang Trung:
“ |
"Ông không
chỉ là cầm quân mà còn là nhà cai trị rất giỏi... Đồn binh vững vàng
khắp đường sông, cửa biển; kỷ luật nghiêm minh, đồng thời lại rất nhân
từ với nhân dân..." |
” |
—Legrand de la Liraye trong tác phẩm Notes historiques sur la nation annamite (Bút ký lịch sử về dân tộc An Nam)[95]
|
“ |
"sáng đẹp
hơn ngũ đế, lòng nhân hiếu cảm động đến trời... với các sĩ phu thì cuốn
vào máy, thu vào lồng, tìm trong hang núi, hỏi chốn thôn quê, hái chẳng
sót loài cỏ mọn". |
” |
—Ngô Trọng Khuê, một đại thần cũ Nhà Hậu Lê, trước chối từ lời mời của Quang Trung[96]
|
“ |
Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn[d]
là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ
lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn
học. Khi ngài ra đất Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là đối với một xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật khác thường. |
” |
|
Sự ra đi của Nguyễn Huệ là tổn thất không thể bù đắp và là điều không
may cho nhà Tây Sơn. Cơ nghiệp ông để lại không được người thừa kế xứng
đáng bảo tồn, nên đã nhanh chóng mất về tay
Nguyễn Ánh. Cái chết đột ngột của ông khiến đời sau còn tiếc cho nhiều dự định lớn lao chưa thành hiện thực.
Dù sau này
nhà Nguyễn
tìm nhiều cách để bôi nhọ và xoá bỏ những chứng tích liên quan tới
Nguyễn Huệ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung, nhưng tên tuổi ông không
hề bị mai một. Người Việt Nam ghi nhận ông là người anh hùng áo vải dân
tộc, là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà.
Ghi công từ hậu thế
Bảo tàng Quang Trung
-
Quang Trung được thờ tại
chùa Bộc ở
Hà Nội. Bức tượng Quang Trung trong chùa được tạc vào thời kì
nhà Nguyễn đang truy diệt tất cả những gì liên quan đến nhà Tây Sơn, tượng có dòng chữ "Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng".
[98] Hàng năm, vào ngày mồng 5
Tết âm lịch, tại quận Đống Đa -
Hà Nội thường tổ chức hội
Gò Đống Đa
để kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa đánh tan quân Thanh của vua
Quang Trung. Dịp kỷ niệm 200 năm chiến thắng Đống Đa, khu tượng đài
Quang Trung được xây dựng tại khu vực này.
Phòng tuyến Tam Điệp ở
thị xã Tam Điệp tỉnh
Ninh Bình là một quần thể các di tích lịch sử ghi dấu cuộc chiến tranh giữa nghĩa quân
Tây Sơn và
nhà Thanh. Quần thể di tích này thuộc khu vực dãy núi
Tam Điệp,
là ranh giới tự nhiên hiểm yếu ngăn cách hai miền Trung - Bắc. Đây là
nơi hội quân một thời oai hùng của Quang Trung với những cái tên
đèo Ba Dội,
núi Gióng Than, đồi Hầu Vua, đồi Chuông, đền Cao Sơn, đền Quán Cháo,
chùa Dâu… Những đồn luỹ Tam Điệp, Quèn Rẻ, Quèn Thờ, Luỹ Chẹn, Luỹ Đệm,
Luỹ Đền…, ải Quang Trung, Kẽm Đó – cổ họng hiểm yếu nhất Tam Điệp… Luỹ
Quèn Thờ là vùng đồi núi, rừng rú hoang vu, năm xưa khi thân chinh ra
Bắc, vua Quang Trung đã lên thắp hương xin kế phá giặc ở đây. Tương
truyền ngôi đền thờ
thần Cao Sơn
trước đó ở giữa lưng chừng núi. Vua Quang Trung đã được thần báo mộng
và nhắc nhở xây đền lên đỉnh núi nếu thắng trận. Sau khi thắng trận vị
vua này đã cho di dời Đền lên đỉnh núi. Đền Quán Cháo là ngôi đền gắn
với sự tích tiên nữ dâng cháo cho quân lính Tây Sơn trước giờ xung trận.
Đền thờ Quang Trung được xây dựng ở thành cổ
Tam Điệp ngay trong thời
nhà Nguyễn. Quảng trường, tượng đài Hoàng đế Quang Trung được nhân dân
Ninh Bình xây dựng tại xã Quang Sơn,
thị xã Tam Điệp.
Tại thành phố
Quy Nhơn, tỉnh
Bình Định cũng có
tượng đài Hoàng Đế Quang Trung, đặt tại
Bảo Tàng Quang Trung.
Cái tên
Nguyễn Huệ hoặc niên hiệu
Quang Trung của ông được đặt cho các đường phố ở các thành phố lớn Việt Nam (
Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh,
Cần Thơ,
Vinh,
Phan Thiết...). Ở Hà Nội, phố Quang Trung được đặt trên di chỉ cũ của phủ
chúa Trịnh là nơi ông từng đóng quân khi tiến vào Thăng Long năm 1786 và cũng là nơi cử hành hôn lễ giữa ông và công chúa
Lê Ngọc Hân.
[99] Ở Thành phố Hồ Chí Minh, có một ngôi miếu nhỏ của ông tọa lạc tại
Quận 12, gần
Công viên phần mềm Quang Trung. Ở Phan Thiết, đường Gia Long sau năm 1975 được đổi thành đường Nguyễn Huệ.
Những di ngôn nổi tiếng
“ |
- Đánh cho để dài tóc
- Đánh cho để đen răng
- Đánh cho nó chích luân bất phản
- Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
- Đánh cho sử trí Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ
|
” |
—(Chiếu xuất quân)
|
“ |
- ...
- Thôi! thôi! thôi việc đã rồi
- Trăm nghìn hãy cứ trách cả vào ta
- Nay mai dọn lại nước nhà,
- Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
- Cơ đồ họ Trịnh đã tan,
- Việc này cũng đừng đổ oan cho thằng (Trịnh Khải)
|
” |
—(Trả lời về việc bia tiến sĩ ở Văn Miếu Thăng Long bị đổ)
|
Hình tượng Nguyễn Huệ trong điện ảnh
Bộ phim dã sử - võ thuật đầu tiên của điện ảnh Việt Nam về Vua Quang Trung là bộ phim "
Tây Sơn hào kiệt" được thực hiện bởi hãng phim Lý Huỳnh phối hợp cùng Hãng phim Thanh Niên hợp tác sản xuất với sự góp mặt của các diễn viên:
Thùy Lâm,
Nghệ sĩ nhân dân Thế Anh, Nghệ sĩ nhân dân
Đoàn Dũng, Nghệ sĩ ưu tú Lý Huỳnh, Công Hậu, Mộng Vân,... và vai Nguyễn Huệ được giao cho nam diễn viên
Lý Hùng.
[100][101] Phim được khởi quay từ ngày
7 tháng 3 năm
2009.
[102][103]
Bộ phim dài 90 phút, dựng lại một quãng thời gian trong cuộc đời của
Nguyễn Huệ - Quang Trung. Đó là thời gian người anh hùng Nguyễn Huệ chạm
mặt và bắt đầu mối tình với Công chúa
Lê Ngọc Hân, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phò Lê - diệt Trịnh và phim kết lại với hình ảnh
chiến thắng Ngọc Hồi -
Đống Đa lịch sử khi 10 vạn quân Tây Sơn đánh tan 20 vạn quân lính nhà Thanh, tiến đến giải phóng Thăng Long vào mùa xuân Kỷ Dậu 1789.
[104]
Bộ phim đã được đầu tư trên 12 tỉ đồng, thực hiện ròng rã trong ba năm
và là phim đầu tiên của Hãng phim Lý Huỳnh được làm hậu kỳ tại
Hồng Kông. Ngoài ra phim còn có sự tham gia của 200 võ sư (
vovinam, võ cổ truyền), 50 con voi ở
Buôn Đôn, 38 tuấn mã từ trường đua, may 2.000 bộ trang phục cho bốn sắc lính, đúc 10 cây
súng thần công
và cảnh quay đông nhất có trên 3.000 diễn viên. Phim được chiếu ra mắt
ngày 22 tháng 4 năm 2010 và chính thức công chiếu toàn quốc vào ngày
30 tháng 4.
[105]
Xem thêm
Chú giải
• a)
^Vì có thuở Nguyễn Lữ đi tu theo đạo Hồi Bani (Islam Bani) một hệ tôn giáo của người Chàm cổ.
• b)
^Sau này Dương bị Nguyễn Huệ xử tử.
• c)
^Vị trí hiện nay của cung Đan Dương (hay Đan Lăng) là không rõ ràng, xin xem chi tiết tại
Việc an táng Quang Trung.
• d)
^Trong
Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim gọi
nhà Tây Sơn là
nhà Nguyễn Tây Sơn vì các vua Tây Sơn họ Nguyễn và để phân biệt với
nhà Nguyễn của
Nguyễn Ánh
• e)
^Chức do
Nguyễn Nhạc phong
• g)
^Trịnh Tông phạm tội bị truất làm con út
• h)
^Con rể của
Nguyễn Nhạc
• i)
^ Trong nguyên bản "Khuân" là một chữ Nôm, rất ít dùng, viết theo tên gọi của địa phương. Khuân Sơn, theo sách
Đại Nam nhất thống chí
của Quốc sử quán triều Nguyễn, tập I (Nxb Thuận Hoá, Huế 1992) chép:
"Núi Khuân Sơn ở phía nam huyện Phong Điền, có tên nữa là Thượng Sơn, vì
hình núi tròn như vựa thóc, thượng lưu sông Phong Điền chảy về phía
tây, có một con đường theo ven núi chạy về phía bắc, đi theo về phía tây
có thể đến đất người Man Thượng",
Bài thơ chữ Hán "Nhìn thấy linh cữu Quang Trung" mới tìm thấy Hồng Phi - Hương Nao,
VUSTA 00:00:00 Ngày 27/05/2006, theo
Xưa & Nay, số 245, 10/2005, trang 6-8
• j)
^Doanh Tần tức
Tần Thuỷ Hoàng; ý tác giả ví Nguyễn Ánh tàn bạo như
Tần Thuỷ Hoàng
• k)
^ Vinh ngày nay
Chú thích và tham khảo
- ^ Kamm 1996, tr. 125
- ^ Nguyễn Phan Quang (2006), sách đã dẫn, tr 208 - 213
- ^ a ă â Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 49
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 102
- ^ Xem Trung chi II họ Hồ Quỳnh Đôi và Tiểu chi Cụ Án, Trung chi 5
- ^ Việt Nam sử lược. Phần IV Tự Chủ Thời Đại Thời Kỳ Nam Bắc Phân Tranh (1528 - 1802) trang 153. Trần Trọng Kim, Trung tâm Học liệu xuất bản. Bản lưu Viện Việt học
- ^ Đại Việt sử ký tục biên, Quyển XXII, Hiển Tông Vĩnh hoàng đế
- ^ a ă â b c d đ e “Sự nghiệp Tây Sơn trên đất Bình Định”. Địa chí lịch sử Bình Định. Sở Khoa Học và Công Nghệ Bình Định. Bản gốc lưu trữ 4 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Đỗ Bang 2006, tr. 11
- ^ Yến Phi 1995
- ^ Largo 2002, tr. 104
- ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 2001, tr. 930
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 40
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 42
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 44-45
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 88
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 89
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 90
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 91
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 54
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 92-93
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 65
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 70
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 77
- ^ a ă â Nguyễn Phan Quang 2005, tr. 82
- ^ a ă â b c d Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 125
- ^ Ngô gia văn phái 1987, tr. 99 (t. 1)
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 119-120
- ^ Ngô gia văn phái 1987, tr. 140 (t. 1)
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 123
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 122
- ^ a ă â Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 146-147
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 145
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 145
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 148
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 149
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 124
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 188-189
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 165
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 217
- ^ Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Văn học, 1984, tập 2, trang 156-161
- ^ Nhiều tác giả, Ngô Thì Nhậm con người và sự nghiệp, ty văn hóa thông tin Hà Tây, 1974, trang 59-64
- ^ Bang giao tập, sách chép tay của thư viện Hán Nôm
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 220
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 168-170
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976,
tr. 236: nguyên chỉ có 12 đống, tới giữa thế kỷ 19, do đào đất làm
đường, mở chợ lại nhặt được nhiều xác nữa nên tập trung thành gò thứ 13.
Tới sau này chỉ còn lại 2 đống, một là đống đa gần đền Trung Liệt, một nữa là đống thiêng trong khu lăng mộ Hoàng Cao Khải
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 238
- ^ Ngô gia văn phái 1987, tr. 190 (t. 2)
- ^ Tạ Chí Đại Trường 2007, tr. 197
- ^ Đỗ Viết Lăng. “Kỳ mưu của Quang Trung”. Báo Bình Định. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2006.
- ^ a ă â Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 317
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 136
- ^ a ă â Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 270
- ^ a ă â b Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 273
- ^ a ă â b c Lê Văn Quý (2001). “Bí mật quanh cái chết của vua Quang Trung”. Địa chí lịch sử Bình Định. Thư Viện Bình Định. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2008.
- ^ Nhiều tác giả 2007, tr. 36
- ^ a ă â Trần Trọng Kim 1971, tr. 143
- ^ a ă â b Nguyễn Phan Quang 2006, tr. 309
- ^ a ă â b Nguyễn Phan Quang 2006, tr. 309-310
- ^ a ă â Trần Trọng Kim 1971, tr. 141
- ^ Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 276
- ^ a ă â b Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 274-275
- ^ a ă â Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 275-276
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 142
- ^ a ă â b Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 274
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 158
- ^ a ă Xuân Duy 2008
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 322
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 323
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 258
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 261
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 276
- ^ Đặng Việt Thủy & Đặng Thành Trung 2008, tr. 269
- ^ a ă Ngô gia văn phái 1987, tr. 208 (t. 2)
- ^ “Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792)”. Vietsciences. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2008.
- ^ Nguyên nhân cái chết của Nguyễn Huệ
- ^ Nguyễn Đắc Xuân (1986), Hương Giang cố sự, Tủ sách sông Hương
- ^ Bảo Huy (17 tháng 1 năm 2006). “Những bí ẩn về lăng mộ Vua Quang Trung sắp được giải mã ?”. Báo Bình Định. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Phan Duy Kha (CAND) (26 tháng 3 năm 2006). “Mộ Quang Trung: Miệng "chén ngọc" hay cái huyệt yểm?”. Việt Nam Net. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Viết Hiền (11 tháng 11 năm 2005). “"Kiến Quang Trung linh cữu" - một tư liệu lịch sử quý”. Báo Bình Định. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ a ă â b Đỗ Bang 2005, tr. 185-186
- ^ Đỗ Bang 2005, tr. 187-189
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 271
- ^ a ă â b Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 271-272
- ^ a ă Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 272
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 273
- ^ a ă “Bùi Thị Nhạn”. Báo Bình Định. 21 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1971, tr. 312
- ^ Nhiều tác giả 2007, tr. 103
- ^ Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 171
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 186
- ^ a ă Trần Trọng Kim 1971, tr. 153
- ^ Nhiều tác giả 2006, tr. 43
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 156
- ^ Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng 1976, tr. 82-83
- ^ Thế Văn (Cập nhật 11:41 ngày 21-02-2007). “Quang Trung Nguyễn Huệ trọng sĩ, cầu hiền”. Báo Nhân Dân. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2008.
- ^ Trần Trọng Kim 1971, tr. 140
- ^ Trần Ngọc Kha (3 tháng 7 năm 2007). “Nhớ một thời "Hà Nội trong mắt ai"”. Hà Nội Mới Online. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- ^ Theo Phố và đường Hà Nội - Nguyễn Vinh Phúc, NXB Giao thông vận tải, 2002
- ^ Thùy Ân (5 tháng 3 năm 2010). “"Tây Sơn hào kiệt": Phim dã sử đầu tiên về Hoàng đế Quang Trung”. Laodong.com.vn. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ Đ.T (20 tháng 4 năm 2010). “Khởi chiếu "Tây Sơn hào kiệt" và "Để Mai tính"”. Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ Vân Hồ (1 tháng 3 năm 2009). “Khởi quay "Tây Sơn hào kiệt"”. Toquoc.gov.vn. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ Khởi quay "Tây Sơn hào kiệt" Danh Nghi, báo Thanh Niên, 02/03/2009 22:51
- ^ Thoại Hà (23 tháng 4 năm 2010). “'Tây Sơn hào kiệt' thể hiện hùng khí dân tộc”. Vnexpress.net. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ CÁT VŨ (24 tháng 4 năm 2010). “Xem Tây sơn hào kiệt - chia sẻ một nỗ lực”. Tuổi Trẻ Online. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
Thư mục tham khảo
- Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (1997), Đại cương lịch sử Việt Nam 1, Nhà xuất bản Giáo dục.
- Nguyễn Phan Quang (2005), Theo dòng Lịch sử Dân tộc 1, Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Đặng Việt Thủy; Đặng Thành Trung (2008), 54 vị Hoàng đế Việt Nam, Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân.
- Nguyễn Phan Quang (2006), Một số công trình sử học Việt Nam, Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Tạ Chí Đại Trường (1973), Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam 1771- 1802, Sài Gòn: Nhà xuất bản Văn Sử Học.
- Nhiều tác giả (2007), Quang Trung Nguyễn Huệ, Nhà xuất bản Văn hoá Sài gòn.
- Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng (1976), Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
- Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược 2, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ giáo dục.
- Nhiều tác giả (2006), Quang Trung-Nguyễn Huệ, di sản và những bài học, Tạp chí Xưa và Nay (Hội Sử học Việt Nam) và nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn.
- Trần Trọng Kim (1951), Việt Nam sử lược 2, Sài Gòn: Nhà xuất bản Tân Việt-Hà Nội.
- Ngô gia văn phái (1987), Hoàng Lê nhất thống chí, 1 và 2, Nhà xuất bản Văn học.
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2001), [[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]] , Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo Dục .
- Ngô Giáp Đậu (1995), Hoàng Việt Long hưng chí (trong Tổng tập văn học Việt Nam) 8B, Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.
- Tạ Chí Đại Trường (2007), Việt Nam Thời Tây Sơn: Lịch Sử Nội Chiến (1771 - 1802), Nhà xuất bản Công an nhân dân.
- Yến Phi (1995), Sổ tay Võ thuật (phần thiệu, đồ hình, diễn thế), Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đỗ Bang (2005), Những khám phá mới về Hoàng đế Quang Trung, Nhà xuất bản Thuận Hóa.
- Xuân Duy (2008), Những ánh hào quang rực rỡ sắc xuân, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008.
- (tiếng Anh)Nhung Tuyet Tran, Phan Huy Le, Anthony Reid (2006), Viet Nam: Borderless Histories, University of Wisconsin Press, ISBN 0299217744.
- (tiếng Anh)Largo, V. (2002), Vietnam: Current Issues and Historical Background, Nova Publishers, ISBN 1590333683.
- (tiếng Anh)Kamm, Henry (1996), Dragon Ascending: Vietnam and the Vietnamese, Arcade Publishing, ISBN 1559703067.
Đọc thêm
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục
- Hồ Đắc Duy, Đại Việt sử thi.
- Quách Tấn, Quách Giao (1988), Nhà Tây Sơn, Sở Văn hoá Thông tin Nghĩa Bình.
- Phan Trần Chúc (2000), Vua Quang Trung, NXB. Văn hoá Thông tin, tái bản, Hà Nội
- Đỗ Bang (1998), Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung, Thuận Hoá - Huế tái bản lần 2
- Relation d'un Voyage Cochinchine en 1778, Par Mr Chapman Traduit de L'Anglais par H. Berland. P15-75.BSEI (Bản dịch Nguyễn Đình Đầu, Tạp chí Xưa và Nay số 92 (5.2001).
Liên kết ngoài
- Quang Trung tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Nguyễn Huệ tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Nguyễn Duy Chính, Hoàng Đế Quang Trung ra Bắc, nghiên cứu mới 26 Tháng 1 2006 - Cập nhật 14h05 GMT. BBC
- Những bà vợ của Hoàng đế Quang Trung Thúc Giáp, (theo Đại Nam chính biên liệt truyện và một số tài liệu khác) báo Bình Định
- Bí mật quanh cái chết của vua Quang Trung - Lê Văn Qu, Nguyệt san Pháp luật số 51 - tháng 3/2001, trang 16 - 20 (3.159), thư viện tỉnh Bình Định
- Nguyễn Huệ với nhân tài - Hồ Khang, Lịch sử quân sự.- 1989.- Tháng 7 (43).- Tr. 28 - 31 (3.151), thư viện tỉnh Bình Định
- Bình Định: Khánh thành tượng đài Hoàng đế Quang Trung BTK-TTX, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 21:30, 20/01/2008
- Mối 'thâm thù' Gia Long - Tây Sơn: Gậy ông đập lưng ông? Báo Đất Việt. Cập nhật lúc 13:35, 20/08/2011