HỌC MỖI NGÀY. Những trang viết rất cần đọc lại. Tòa nhà Quốc hội Việt Nam trên Đường Độc Lập, quận Ba Đình, Hà Nội (ảnh Tia Sáng). Nhất thể hóa theo mô hình tổng thống lưỡng tính (Báo Tia Sáng 11/6/2017, Nguyễn Sĩ Dũng). Phát triển kinh tế nông nghiệp: Tích tụ ruộng đất không phải là yếu tố quyết định. (Báo Tia Sáng 8/6/2017, Nguyễn Minh Nhị); Tích tụ ruộng đất và phát triển nông nghiệp CNC: Khuyến nghị chính sách (Báo Tia Sáng 25/05/2017,
Trần Đức Viên); Dưới đáy đại dương là Ngọc (Tình yêu cuộc sống 12/6/2017, Hoàng Kim).
Báo Tia Sáng 11/06/2017 09:00 -
Nguyễn Sĩ Dũng
Nhất thể hóa theo mô hình tổng thống lưỡng tính về cơ bản cũng giống như
nhất thể hóa theo mô hình đại nghị. Điểm khác cơ bản nhất ở đây là Đại
hội Đảng không bầu ra người đứng đầu Đảng để dẫn dắt cuộc bầu cử vào
Quốc hội, mà bầu ra người đứng đầu Đảng để ứng cử vào chức danh Tổng
thống (hay theo truyền thống của nước ta, gọi là Chủ tịch nước cũng
được). Ứng cử viên được lựa chọn thông thường phải là người đã chủ trì
trong việc hoạch định đường lối của Đảng cho nhiệm kỳ 5 năm tới và sẽ là
người căn cứ vào đường lối đó mà vận động bầu cử cho mình.
Tổng thống trong mô hình tổng thống lưỡng tính do toàn dân bầu ra nên
độc lập với Quốc hội và không chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Với một
chế định mang tính chất như vậy, nếu chúng ta lựa chọn mô hình này để
nhất thể hóa, thì việc sửa đổi Hiến pháp là một nhu cầu bắt buộc. Ngoài
ra, việc sửa đổi Hiến pháp còn rất cần thiết để bổ sung thêm quyền lực
hành pháp cho Tổng thống, vì trong mô hình tổng thống lưỡng tính, quyền
hành pháp nằm phần lớn trong tay Tổng thống.
Điểm đặc trưng nhất của mô hình tổng thống lưỡng tính là ngoài Tổng
thống nắm quyền hành pháp ra, còn có một yếu nhân khác cũng nắm quyền
hành pháp là Thủ tướng. Phân chia quyền lực giữa Tổng thống và Thủ tướng
là một nhu cầu tất yếu của mô hình này. Thực tiễn trên thế giới cho
thấy, không có một khuôn mẫu cố định nào cho việc phân chia quyền lực
giữa hai yếu nhân nói trên cả. Ở những nước khác nhau, việc phân chia
quyền lực là rất khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản, quyền lực trong lĩnh
vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao và những lĩnh vực chính sách kinh tế
lớn thường thuộc về Tổng thống. Việc điều hành nền kinh tế hằng ngày
thường thuộc về Thủ tướng. Thủ tướng đồng thời cũng là người đứng đầu
Nội các và điều hành công việc hằng ngày của Nội các.
Nếu Tổng thống do dân bầu trực tiếp, thì Thủ tướng sẽ được lựa chọn
trong số các vị đại biểu Quốc hội. Quyền lựa chọn Thủ tướng để trình ra
Quốc hội phê chuẩn thuộc về Tổng thống. Tuy nhiên, trong mô hình đa
đảng, nhiều khi Tổng thống phải lựa chọn người của đảng đối lập nhưng có
đa số trong Quốc hội để giới thiệu làm Thủ tướng. Lý do là vì nếu đảng
của Tổng thống không có đa số ở trong Quốc hội, thì có giới thiệu người
của đảng mình cũng vô ích. Một ứng cử viên Thủ tướng như vậy chắc chắn
sẽ không được Quốc hội phê chuẩn. Trong tình cảnh này, việc triển khai
chính sách của Tổng thống sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Ở nước ta, với mô hình một đảng cầm quyền, Tổng thống có thể trao đổi
thống nhất ý kiến với Đảng đoàn Quốc hội trước khi giới thiệu ứng cử
viên giữ chức danh Thủ tướng. Khác với Tổng thống, Thủ tướng trong mô
hình tổng thống lưỡng tính sẽ phải tương tác thường xuyên với Quốc hội,
giải trình chính sách với Quốc hội và bị Quốc hội giám sát.
Trong mô hình tổng thống lưỡng tính, ban lãnh đạo của Đảng sẽ gồm Tổng
thống, Thủ tướng, các thành viên nội các và các thành viên Đảng đoàn
Quốc hội (tất cả các đảng viên trúng cử làm đại biểu Quốc hội). Nếu
trong mô hình đại nghị, nhà lãnh đạo đứng đầu Đảng là Thủ tướng, thì
trong mô hình tổng thống lưỡng tính, nhà lãnh đạo đứng đầu Đảng là Tổng
thống. Quy trình chính sách trong nội bộ Đảng sẽ được triển khai giữa
Tổng thống, Nội các và Đảng đoàn. Khi đã có được sự nhất trí của ban
lãnh đạo Đảng, Tổng thống có thể trực tiếp ban hành chính sách qua sắc
lệnh hoặc Thủ tướng có thể trình chính sách ra Quốc hội thông qua thành
luật. Với quy trình này, việc hoạch định chính sách trong Đảng và trong
Nhà nước vẫn gắn kết chặt chẽ với nhau và không lặp lại nhau.
Cũng phải thừa nhận một thực tế là trong thế giới hiện đại, ở rất nhiều
nước, khi một đảng đã lựa chọn người đứng đầu của mình làm ứng cử viên
tổng thống, thì đồng thời cũng ủy quyền hoàn toàn cho người đó triển
khai các chính sách của đảng. Việc phê chuẩn đường lối, chính sách chỉ
đơn giản như sau: đảng lựa chọn ứng cử viên nào thì đồng thời phê chuẩn
luôn chương trình tranh cử trong đảng của ứng cử viên đó. Điều này đúng
không chỉ cho ứng cử viên vào chức danh tổng thống, mà còn đúng cả cho
các ứng cử viên vào chức danh đại biểu Quốc hội. Việc nhiều nhất đảng có
thể làm sau khi các ứng cử viên của mình trúng cử chỉ là cung cấp sự hỗ
trợ về tư vấn chính sách cho những người này, chứ không quyết định
chính sách trước và áp đặt cho họ. Đây là mô thức chúng ta cũng hoàn
toàn có thể tiếp thu cho việc nhất thể hóa theo mô hình tổng thống lưỡng
tính và kể cả mô hình đại nghị.
NSD.
PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP: TÍCH TỤ RUỘNG ĐẤT
KHÔNG PHẢI LÀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH.
Báo Tia Sáng 8/06/2017,
Nguyễn Minh Nhị
Gần đây, có nhiều kiến nghị về chính sách khuyến khích tích tụ, tập
trung đất nông nghiệp, coi đó là một yếu tố quyết định cho sự phát triển
nhanh và bền vững của nông nghiệp Việt Nam. Tôi cho rằng, không hoàn
toàn như vậy. Phát triển kinh tế nông nghiệp phải bắt đầu từ con người,
từ niềm tin chứ không phải từ đất – hạn điền, tiền vốn hay khoa học công
nghệ nào khác.
Tập đoàn Lộc Trời là đơn vị đã triển khai tiêu chuẩn Sản xuất lúa
gạo bền vững (Sustainable Rice Platform-SRP) với các tiêu chí đảm bảo
sức khỏe, an toàn thực phẩm, môi trường… cho tới các yếu tố bình đẳng
như nữ quyền, quyền trẻ em. Nguồn ảnh: TBKTSG.Vài năm gần đây, những mô hình sản xuất lớn như “Cánh đồng (lúa) mẫu
lớn” do tập đoàn Lộc Trời hợp tác với nông dân, làm lúa giống kết hợp
trồng cỏ nuôi bò trên quy mô lớn của ông Sáu Đức, nuôi heo theo mô hình
hiện đại của ông Huỳnh Chánh Huy ở An Giang… hay những chủ trang trại
nuôi cá tra với sản lượng hàng ngàn, thậm chí cả vạn tấn/năm/hộ đang
xuất hiện nhiều hơn. Các doanh nghiệp này có mô hình khép kín, tự cung
cấp từ con giống, thức ăn, tự nuôi thương phẩm và được ưu đãi hoàn thuế
VAT. Tuy nhiên, nhiều hộ sản xuất và cả các doanh nghiệp có qui mô lớn
đó... lại đang rất “bí” đầu ra, đang chờ... khó khăn mới.
Hiện nay, hầu như không có doanh nghiệp nào kêu bí “hạn điền” cả. Mặc dù
về lâu dài, cũng có tâm lý chưa an tâm về “quyền tài sản” đối với đất,
nhưng trước mắt Điều 129 và 130 Luật đất đai 2013 đã cho phép sang
nhượng, nhận quyền sử dụng đất cao hơn 10 lần hạn điền cũ, tức là tối đa
30 ha đất sản xuất cây hằng năm, 100 ha đất cây ăn quả và 300 ha đất
trồng rừng. Thiết nghĩ, một hộ sản xuất lớn sở hữu quy mô chừng đó là
cũng có phần quá sức so với thực tế; còn nếu muốn sản xuất ở quy mô lớn
hơn thì các hộ sản xuất phải đăng ký thành doanh nghiệp, lúc đó thì đâu
có hạn điền nào bó buộc. Vì vậy việc nông sản các nước ồ ạt vào Việt
Nam, thị trường nông sản của Việt Nam ở các nước khác đang bị teo tóp
hoặc bị mất chủ yếu do thiếu chữ tín, chất lượng hàng hóa không ổn định
và thường là thấp kém… chứ không thể “đổ tội” cho hạn điền. Thậm chí,
sản xuất lớn, đưa sản lượng tăng vọt mà sản phẩm chưa khẳng định được
chỗ đứng trên thị trường mới càng khiến giá rơi thảm hại, người sản xuất
lao đao. Bài học gạo, cá… và mới đây là chuối, heo cho thấy rõ điều
này.
Theo tôi thì cái “bí” của sản xuất nông nghiệp vừa qua và hiện nay nằm ở
tầm vĩ mô thuộc quản lý Nhà nước đã không bảo đảm các cân đối lớn chủ
yếu về sản xuất – thị trường, sự an lòng của người dân về quyền tài sản
đối với đất đai; và, về một nền giáo dục phổ thông lành mạnh – vì con
người – do con người chưa được đáp ứng vv...
Trong bài trả lời phỏng vấn trên báo An Ninh điện tử ngày 10/5/2017,
nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PT Nông thôn Lê Huy Ngọ kể: Khi nông dân hỏi
Bộ trưởng là nên nuôi trồng cây con gì thì ông trả lời: “Ra chợ hỏi”.
Ông lấy ví dụ những chủ trang trại ở Mexico phải bỏ hoang hàng vạn ha
đất vì chưa ký được hợp đồng tiêu thụ sản phẩm dẫn chứng về việc là sản
xuất phải xuất phát từ thị trường chớ không phải từ Nghị quyết, kế hoạch
trong phòng họp. Tôi cũng có thông tin rất mới về “Tích tụ đất ở tỉnh
Thái Bình” qua lá thư của ông bạn tôi (A) nhận ngày 12/5/2017 như sau:
“Kính gửi: Anh (A).
Tôi đang ở Thái bình (cũng là quê của Anh), tiếp xúc với người nhà và được biết tình hình chính quyền thuê đất của dân như sau:
1. Lựa chọn vùng bờ xôi ruộng mật, gần đường và đất tốt để quy hoạch
mời doanh nghiệp vào. Vùng xa, đi lại khó khăn và đất xấu thì không quy
hoạch và không thuê.
2. Đất được thuê với giá 140 kg thóc/sào /năm nhưng chi trả bằng giá
thóc nhà nước tính thuế (470.000-480.000 đồng/tạ) trong khi giá thị
trường là 800.000 đồng/tạ và chi trả từ hai đến năm năm một lần.
3. Trên 95% nông dân không đồng tình cho thuê đất vì các lý do sau: (1)
giá thấp gần như chỉ bằng 50% giá thị trường, nên nông dân cho rằng sẽ
không đủ tiền để mua thóc cho an ninh lương thực của gia đình; (2) đưa
đất cho doanh nghiệp thì mình lấy gì làm kế sinh nhai, tiền sẽ tiêu hết
nhưng đất vẫn có thể tạo ra thu nhập. Doanh nghiệp chỉ thuê lao động trẻ
18 – 35 tuổi trong khi trên 70% lao động đang làm việc ở quê là lao
động già và không có doanh nghiệp nào thuê, hiện có một lực lượng lao
động trên 35 tuổi đang bị “thải” về và quay trở lại làm nông nghiệp; (3)
Mức thuê 140 kg thóc/ sào/ năm lúc này có vẻ hợp lý, nhưng 5-10 năm nữa
có sự thay đổi về công nghệ thì mức đó sẽ bị thấp, (4) Diện tích thuê
chỉ tính ruộng mà không tính bờ nên diện tích bờ sẽ được chính
quyền tính riêng với doanh nghiệp.
Chỉ có khoảng 2-3% hộ đồng ý vì không làm ruộng và bỏ hoang vì nhiều lý do.
Vì thế ở quê tôi, xã Phúc thành, huyện Vũ thư thì dân không đồng ý.
Kính thư!
Giáo sư Đ K C”
Vì vậy, làm nông nghiệp bây giờ là phải: chuyển từ số lượng - diện tích,
năng suất, sản lượng sang chất lượng - ngon, bổ, sạch, đẹp, cung cấp ổn
định; từ cao trào - phong trào dịu xuống còn bình thường và ổn định;
tránh tình trạng “dư cung” trong sản xuất và phải biết tạo ra sự khác
biệt. Khác biệt chính là sự hấp dẫn cho thị trường. Đó là quan điểm chỉ
đạo nhưng chính quyền, đoàn thể không triển khai, tuyên truyền như xưa
nay mà hãy để cho doanh nhân và nông dân làm việc cùng nhau. Chính quyền
hãy trở về vai trọng tài và chế tài mà từ lâu quên lãng. Các đoàn thể
chính trị trở về với công việc của hội đoàn của mình. Các cấp ủy Đảng
với vai trò lãnh đạo kịp thời điều chỉnh, điều chuyển những cán bộ không
thích hợp. Nếu cả hệ thống chính trị cùng quan tâm thì sẽ đi vào vết xe
“huy động sức mạnh tổng hợp đẩy mạnh phong trào sản xuất” như lâu nay.
Kiến nghị
- Không thay đổi hạn điền, giữ như Luật Đất đai năm 2013 (điều 129, 130)
nhưng thời hạn sử dụng đất được giao nên thay đổi. Bởi vì, tại sao thời
hạn chỉ là 50 năm? Điều này đã gây lo lắng, hoài nghi trong dân nhưng
không ai nói ra. Đó cũng có thể là nguyên nhân sâu xa vì sao dân không
mạnh dạn, hứng thú đầu tư vào nông nghiệp như chính phủ kỳ vọng! Đề nghị
đất trong hạn điền không ghi thời hạn sử dụng, không thu thuế trực canh
hoặc thuế cho thuê lại; không dùng khái niệm “thu hồi đất” mà dùng từ
“mua lại”, “trưng mua”, “trưng dụng có thời hạn”, “trưng thu”… Hạn điền
là “chiếc giày” do chế độ này đóng cho nông dân đó, đừng tháo nó ra!
- Nên có văn bản quy định rõ việc doanh nghiệp muốn sản xuất lớn ở quy
mô nông trại, đồn điền với hàng ngàn ha, ngoài điều 129, 130 Luật Đất
đai 2013 thì không hạn chế, doanh nghiệp chỉ cần lập dự án, có phương án
và được cấp có thẩm quyền phê duyệt; nếu thuê lại đất công thì ký trực
tiếp với chính quyền thuê đất; nếu thuê/ mua lại của dân thì do doanh
nghiệp và nông dân tự thỏa thuận, chính quyền chỉ làm trung gian, hòa
giải. Nếu chính quyền thay doanh nghiệp thỏa thuận và ký với nông dân
hoặc ngược lại là tạo sơ hở cho tham nhũng như cách làm nôn nóng vừa qua
thì sẽ làm mất lòng dân, xã hội không ổn định. Cần chú ý nói rõ: Doanh
nghiệp có dự án phải sản xuất, kinh doanh đúng mục đích của dự án, nếu
chuyển mục đích dự án phải có điều kiện ràng buộc hoặc chế tài nghiêm
khắc. Chống đầu cơ đất, “ghim đất” giữ giá, “phát canh thu tô” trá hình.
Có quy định thuế lũy tiến với đất cho thuê vượt hạn điền (3ha, 10 ha,
30 ha… theo từng loại đất).
- Cần bổ sung quy định “đa sở hữu”, thừa nhận quyền tài sản cá nhân về
đất nằm trong sở hữu toàn dân. Trong sở hữu toàn dân có phần sở hữu do
chính quyền trực tiếp quản lý chứ không đồng nghĩa hai chủ thể (Toàn dân
– Nhà nước với Chính quyền) là một. Có chế tài nghiêm trị bất cứ ai vi
phạm quy định thu hồi đất trái luật như vừa qua.
- Mở rộng quy mô đất đai, thay đổi phương thức canh tác, thị trường...
nhưng trên hết là cơ chế-thể chế quản lý kinh tế-xã hội phải đồng thời,
đồng bộ. Nếu đất sản xuất rộng, thị trường hẹp ắt sẽ sinh phương thức
phát canh thu tô, nếu mọi thứ đều ổn mà lòng người chưa yên thì sản xuất
cũng không bền vững. Cần cảnh giác sự biến thái của thị trường đất do
“nhóm lợi ích” chi phối, sinh ra tư bản hoang dã mà “nới hạn điền” cũng
là một cơ hội lớn cho các nhóm lợi ích!
- Nhà nước “làm thị trường” theo kiểu nhà nước – bằng kinh tế đối ngoại,
làm trọng tài và có chế tài luật pháp, đặc biệt là phải bảo vệ chất
lượng nông sản, bảo vệ môi trường, chống cạnh tranh không lành mạnh. Còn
các đơn vị sản xuất kinh doanh phải “tự lực”, như doanh nhân tự phát
triển thị trường trong nước và xuất khẩu; tiểu thương biết bán lẻ đến
từng hộ gia đình; nông dân phải biết sản xuất ra con gà, hạt gạo...
sạch, ngon và tìm nơi bán... chứ không thể cứ kêu Nhà nước “cứu” như đã
quen được bảo hộ trong thời bao cấp.
- Cuối cùng là niềm tin xã hội đang bị tổn thương, nếu không nói là bị
mất quá nhiều với khẩu ngữ: “Nói vậy không phải vậy”,“Thấy vậy không
phải vậy” đang phổ biến. Ta không tin thực phẩm ta sạch thì ai tin? Và
làm sao cho ta tin ? Có lần PGS VTK thốt lên: “Sản phẩm nông nghiệp của
ta bẩn như thế chỉ có bán cho Trung Quốc”. Nhưng nay thì ngược lại rồi,
họ bán thực phẩm của họ mà dán nhãn Việt Nam, đúng là “quả báo một giây
nhãn tiền”! Còn với cung cách làm ăn kiểu “ăn xổi ở thì” của ta thì
khách hàng nào thành khách hàng “truyền thống” với ta?
--------
Tác giả nguyên là Chủ tịch tỉnh An Giang.
TỊCH TỤ RUỘNG ĐẤT VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CNC:
KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
Báo Tia Sáng 25/05/2017, Trần Đức Viên
Tích tụ ruộng đất và phát triển nông nghiệp CNC một cách thiếu nghiên
cứu, thiếu thận trọng có thể đẩy những người nông dân ra “bên lề” của
công cuộc hiện đại hóa trong sản xuất nông nghiệp. Vậy nhà nước nên có
những chính sách gì để đảm bảo vai trò chủ thể của người nông dân?
Sau kỳ I ; kỳ II phân tích toàn diện về tích tụ ruộng đất và phát
triển nông nghiệp CNC trong loạt bài “Tích tụ ruộng đất và phát triển
nông nghiệp CNC: Đôi điều trăn trở”, mời bạn đọc đọc tiếp kỳ cuối
“Khuyến nghị chính sách” của tác giả Trần Đức Viên.
Tích tụ ruộng đất ở quy mô lớn mới thực sự là cứu cánh cho nền nông nghiệp đang trì trệ? Nguồn ảnh: TTXVN.
Tích tụ, tập trung đất đai
1. Thực tế cho thấy tình trạng nông nghiệp kém hiệu quả hiện nay ở
nước ta xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó do diện tích canh tác
nhỏ bé, phân tán nên cần phải tích tụ, tập trung đất đai là một trong
những nguyên nhân, nhưng chưa hẳn đã là nguyên nhân mang tính quyết
định. Người ta cho rằng, nguyên nhân chính của tình trạng kém hiệu quả
hiện nay là do tổ chức nông dân (tổ chức sản xuất) và tổ chức thị trường
còn có những yếu kém, thể hiện ở chỗ nông nghiệp Việt Nam tham gia vào
chuỗi toàn cầu ở các khâu có giá trị gia tăng thấp, lao động giản đơn,
thiếu sự hỗ trợ của công nghiệp, dịch vụ, chế biến, thiếu thương hiệu có
uy tín, sản xuất không theo tín hiệu thị trường, không theo quy hoạch,
sử dụng vật tư, giống chất lượng kém dẫn đến chất lượng nông sản thấp,
năng lực cạnh tranh trên thị trường nông sản quốc tế yếu, quản lý nhà
nước trong lĩnh vực nông nghiệp còn có những hạn chế dẫn đến tình trạng
tàn phá tài nguyên [1], ô nhiễm môi trường ...
Vì vậy, để tái cơ cấu nông nghiệp hiệu
quả, cần các giải pháp toàn diện, trong đó giải pháp tích tụ, tập trung
đất nông nghiệp[2] phải đi đôi với cải cách mạnh mẽ các điều kiện của
sản xuất nông nghiệp như tổ chức tốt thị trường đầu vào, đầu ra, xây
dựng và bảo vệ thương hiệu, tăng cường quản lý chất lượng nông sản, nâng
cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng nông nghiệp, tôn trọng qui luật
thị trường, để thị trường điều tiết qui mô sản xuất và công nghệ áp dụng
với sự định hướng và hỗ trợ của nhà nước… người nông dân đồng thời là
doanh nhân trên đồng ruộng của họ, Có như vậy thì nông nghiệp Việt Nam
mới có thể bước sang một giai đoạn phát triển mới.
2. Tích tụ ruộng đất phải tuân theo quy
luật thị trường[3], đảm bảo tính công khai, minh bạch và bình đẳng giữa
các chủ thể (hộ gia đình, hợp tác xã, doanh nghiệp, ...). Quy luật thị
trường sẽ tự nó phân phối nguồn lực đất đai (và các nguồn lực khác như
vốn, lao động, và cả công nghệ tương thích nữa) một cách hiệu quả. Chính
quyền chỉ nên làm vai trò xúc tác, trung gian hỗ trợ doanh nghiệp (DN)
và hộ nông dân trong quá trình thỏa thuận thuê, mua đất. Xu hướng chung
là người nông dân không muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tâm lý giữ
đất vẫn phổ biến bất chấp nguồn thu nhập phi nông nghiệp được đảm bảo.
Do đó, vai trò của thị trường thuê đất cần được chú ý để đảm bảo việc
tiếp cận đất đai trong quá trình mở rộng sản xuất nông nghiệp. Mạnh dạn
thay đổi chính sách, pháp luật nhằm khuyến khích việc chuyển đổi ruộng
đất, cho thuê đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp để tập
trung phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn. Bỏ thời gian
giao đất, nên xem xét giao đất nông nghiệp cho nông dân sử dụng lâu dài
như đất ở, qua đó tăng giá trị tài sản cho họ khi góp đất vào DN hay cho
DN thuê đất.
3. DN có vai trò đầu tàu trong liên kết
giúp người nông dân sản xuất theo chuỗi sản phẩm phù hợp với tín hiệu
thị trường cả trong và ngoài nước. DN tích tụ ruộng đất nhưng không làm
người nông dân mất kế sinh nhai, giúp người nông dân có cuộc sống tốt
hơn khi làm nông nghiệp cùng DN. Lúc đó, nông dân mới có điều kiện tự
nguyện nhượng cho DN quyền sử dụng đất hay cho thuê đất dài hạn. DN tự
thương thảo với người nông dân theo cơ chế thị trường, tức là gặp nhau
giữa “cung và cầu”, chính quyền chỉ đứng ra làm chứng, xác nhận để dân
yên tâm hơn. Nhà nước chỉ nên là người tạo ra các “luật chơi” và thực
hiện vai trò kiến tạo của mình, chứ không nên tham gia trực tiếp vào
“cuộc chơi” kiểu như đứng ra thuê đất của nông dân rồi cho DN thuê lại.
Cần xem lại tư cách pháp nhân của chính quyền địa phương khi ký kết hợp
đồng thuê đất và cho thuê đất giữa nông dân và DN.
4. Về kiến nghị bỏ hạn điền, cần suy xét
cẩn trọng trong việc tích tụ ruộng đất quy mô lớn[4], nên chăng chỉ là
nới hạn điền. Kiến nghị bỏ hạn điền mang lại lợi ích không lớn, không
chắc chắn, trong khi rủi ro tiềm ẩn lại khá cao. Hãy thử phân tích một
số hệ quả và ích lợi mang lại.
Đã có một số DN tập trung được diện tích
đất khá lớn nhưng kinh doanh không thành công, khi giao đất, chính
quyền kỳ vọng từ các DN nông nghiệp là họ sẽ đầu tư lớn, đưa cơ giới hóa
vào sản xuất nông nghiệp, áp dụng giống mới, công nghệ mới, nhờ đó cung
cấp khối lượng sản phẩm đạt quy mô xuất khẩu hiệu quả, đồng nhất về
kích cỡ, chất lượng, đảm bảo các tiêu chuẩn về thương nhãn, xuất xứ,
thương hiệu… Nhưng, để xây dựng thương hiệu, cần một quá trình lâu dài.
Quy mô lớn mà không có thương hiệu, không có thị phần ổn định thì rủi ro
phá sản khi thị trường giảm giá càng lớn. Mà thị trường nông sản thế
giới luôn hoạt động theo chu kỳ tăng, giảm khó đoán định, nhất là với DN
Việt Nam, còn rất non trẻ, ít kinh nghiệm trên thương trường quốc tế. Ở
khía cạnh này, DN kém “sức sống” hơn hộ gia đình. Bởi vì người nông dân
kinh doanh ở quy mô hộ gia đình có khả năng “co giãn” nhu cầu, điều
tiết cung cầu để thích ứng với rủi ro thị trường tốt hơn DN. Do đầu tư
ít, họ ít chịu áp lực trả nợ ngân hàng; do không phân định rõ tiền lương
và lợi nhuận nên hộ nông dân có thể duy trì sản xuất ở mức tiền lương
tối thiểu, không có lợi nhuận. Vì thế, nông nghiệp nông hộ sẽ ít chịu
hậu quả phá sản khi giá nông sản bước vào chu kỳ giảm so với DN nông
nghiệp.
Các rủi ro đem lại tác động tiêu cực của
việc bỏ hạn điền có thể là: (i) Sẽ có hiện tượng DN nỗ lực nhận quyền
sử dụng đất để đầu cơ, bán lại dự án cho DN khác khiến ruộng đất bị bỏ
hoang ở quy mô lớn trong thời gian dài, trong khi dân thiếu đất canh tác
dẫn đến hiện tượng lấn chiếm trở lại như từng xảy ra trong lĩnh vực
công nghiệp, dịch vụ những năm qua; (ii) Người giàu có thể thành lập DN
(trá hình) để mua đất nhằm tích trữ của cải một cách an toàn, tránh lạm
phát và phá sản của ngân hàng. Do mục tiêu là tích trữ của cải nên họ
không chú trọng đầu tư để phát triển nông nghiệp dẫn đến một số diện
tích đất không được sử dụng hiệu quả, kích động lại chế độ phát canh thu
tô ở quy mô nhỏ; (iii) Hiện tượng cho vay nặng lãi (hoạt động ngầm và
thịnh hành ở nhiều nơi, không chỉ ở nông thôn) sẽ hỗ trợ cho những người
giàu tích tụ đất đai không nhằm kinh doanh nông nghiệp, đồng thời xuất
hiện trở lại nhiều hộ nghèo, vì hoàn cảnh khó khăn phải bán đất. Như
vậy, quá trình tích tụ đất tự phát sẽ không còn bị ngăn cản bởi hạn điền
(mặc dù hạn điền không thể ngăn chặn hoàn toàn quá trình tích tụ đất
phi pháp, nhưng hạn chế động cơ tích tụ đất phi pháp do rủi ro lớn).
Như vậy, việc bỏ hạn điền không hứa hẹn
một cách chắc chắn rằng có làn sóng đầu tư lớn của DN, tập đoàn lớn vào
kinh doanh nông nghiệp, trong khi đó lại tiềm ẩn các tác động tiêu cực
khá lớn. Vì vậy, vấn đề này, cần nghiên cứu thận trọng để nếu cần thiết
thì mở rộng thêm hạn điền ở quy mô kinh doanh hiệu quả (nới hạn điền).
5. Nên có chính sách khuyến khích các
DN, nhất là các DN có tiềm lực tài chính mạnh, đầu tư vào phát triển
công nghiệp chế biến nông sản, phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông
sản và tổ chức thị trường nội địa và xuất khẩu (kết nối nông dân Việt
Nam với thị trường toàn cầu) hơn là khuyến khích các DN tích tụ ruộng
đất để sản xuất qui mô lớn theo mô hình phương Tây như hiện nay. Học
viện Nông nghiệp Việt Nam (HVNNVN) đã có bài học về việc này khi tổ chức
trồng dứa quy mô lớn ở Quảng Trị: (a) Ruộng đất vẫn của nông dân; (b)
DN lo đầu vào (cung cấp giống chuẩn, vật tư nông nghiệp như phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật chuẩn với giá bán buôn thấp nhất cho nông dân) và
lo bao tiêu toàn bộ sản phẩm với giá cả đã được công bố công khai từ đầu
vụ (trước khi trồng), nông dân mang nông sản đến các vị trí tập kết, xe
tải của DN đến thu mua và trả tiền mặt cho nông dân tại các điểm tập
kết gần ngay đồng ruộng của nông dân, khấu trừ tiền giống và vật tư DN
đã ứng trước (không tính lãi); (c) HVNNVN cùng DN lo tập huấn (miễn phí)
cho nông dân và cử cán bộ kĩ thuật cùng sinh viên thực tập tốt nghiệp
chỉ đạo sản xuất trực tiếp; (d) Chính quyền địa phương làm trọng tài,
đồng hành cùng nông dân và DN giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng phát
sinh (nếu có), lo xác đinh các vị trí tập kết, lo tổ chức các nhóm hộ
nông dân, Hợp tác xã (HTX) sản xuất theo yêu cầu kĩ thuật và công nghệ
của DN và của HVNNVN, lo tu sửa đường xá, hệ thống cấp thoát nước phục
vụ sản xuất và thu mua nông sản. Khi diện tích trồng dứa của tỉnh vượt
quá 2.000hecta, DN sẽ đầu tư xây dựng một nhà máy chế biến dứa tại chỗ,
tỉnh có trách nhiệm tìm đất và tiến hành các thủ tục pháp lý giao đất
cho DN xây dựng nhà máy. Như vậy là, DN không trực tiếp sản xuất ra nông
sản, chỉ lo “đầu vào” và “đầu ra” của nông sản. Sản xuất trên đồng
ruộng là việc của nông dân, tổ chức sản xuất là việc của chính quyền.
Tất nhiên là, chính quyền, DN, HVNNVN luôn đồng hành cùng nhau vì lợi
ích của DN và của người nông dân. Mô hình này cũng đang được triển khai
thành công ở Tây Nguyên.
Với nông dân Việt Nam, trong điều kiện
hiện nay, quy mô diện tích bao nhiêu là vừa? chưa ai nghiên cứu kĩ càng
vấn đề này cho từng vùng miền, cho từng loại nông sản. Có người cho rằng
đất trồng cây hàng năm khoảng 30 hecta, đất vườn trồng cây ăn trái
khoảng 100 hecta, đất trồng rừng khoảng 300 hecta là phù hợp, là vừa sức
với với trình độ quản lý và công nghệ hiện nay của hộ nông dân.
Nông nghiệp công nghệ cao
1. Cần có chính sách khuyến khích phát
triển NNCNC quy mô lớn, tập trung, nhưng cũng phải quan tâm đúng mức,
nếu chưa muốn nói là quan tâm hơn, đến sản xuất quy mô nông hộ[5],
tổ/nhóm hộ nông dân, HTX. Xin nhắc lại là, sản xuất nông sản hàng hóa
ứng dụng CNC quy mô nông hộ[6] rất thành công ở Nhật Bản, Đài Loan, Hàn
Quốc, Hà Lan và thậm chí là ở ngay Hoa Kỳ, đất nước với những cánh đồng
nhìn hút tầm mắt. Cần phân định rõ và tôn trọng cả hai hình thức: NNCNC
và ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp. NNCNC hay ứng dụng CNC vào sản
xuất nông nghiệp thì cũng phải hướng tới nền nông nghiệp hữu cơ, an
toàn, thân thiện với môi trường, tạo tiềm năng phát triển du lịch nông
nghiệp.
Thận trọng trong việc nhập khẩu nguyên
xi công nghệ tiên tiến "nhất thế giới" của các nhà đầu tư có tiềm lực
tài chính mạnh và quan hệ xã hội rộng. Điều đó đóng góp không đáng kể
cho việc tăng cường tiềm lực KH&CN quốc gia, buộc chúng ta phải lệ
thuộc vào công nghệ, giống, vật tư của nước ngoài. Cần cân nhắc được-mất
giữa nhập khẩu lương thực, thực phẩm sang nhập khẩu giống, vật tư, công
nghệ; chưa ai đo đếm xem “đắt, rẻ” thế nào giữa hai hình thức nhập khẩu
này.
2. Nông dân vẫn phải là chủ thể của
ruộng đồng, muốn vậy, bằng một cách nào đó, họ phải được tham gia trực
tiếp và gián tiếp vào quá trình vận hành và hoạt động của các khu NNCNC,
không thể để nông dân bị đẩy ra "bên lề" của công cuộc phát triển
NNCNC. Việc các DN thâu tóm diện tích quy mô lớn (kiểu AgroHolding của
Ukraina), đẩy nông dân ra khỏi đồng ruộng của họ tiềm ẩn nhiều rủi ro và
hậu họa khó lường trước, ví dụ khi DN bị thua lỗ, ai sẽ tạo sinh kế mới
cho nông dân; và khi ấy DN có thể dùng con bài “nông dân” để mặc cả với
chính quyền. Nhờ tham gia vào các hoạt động này, họ và con cháu họ học
hỏi được kinh nghiệm quản lý và vận hành DN nông nghiệp, hiểu biết về
các công nghệ phù hợp; từ đó hình thành tầng lớp nông dân mới, có tri
thức, làm chủ công nghệ và biết quản lý, điều hành DN nông nghiệp, làm
thay đổi căn bản bộ mặt nông thôn, xác lập vị thế mới của nông sản Việt
Nam trên thị trường toàn cầu.
*** Những vấn đề trên cần có các nghiên
cứu độc lập và tương đối toàn diện về tác động/hiệu quả của việc tích tụ
ruộng đất, nới hạn điền, NNCNC đến phát triển kinh tế - xã hội và bảo
vệ môi trường nói chung, đến phát triển nông nghiệp và xây dựng nông
thôn mới nói riêng, nhất là tác động đến sinh kế của người dân (ngắn hạn
và dài hạn).
Có thể học tập mô hình
"Ngân hàng đất nông nghiệp" với mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp và phát triển thế hệ các nông dân trẻ có tri thức như Pháp,
Hàn Quốc và Nhật Bản. Ở đó, họ thành lập các công ty (ngân hàng) thu mua
đất của nông dân theo giá thị trường, nếu như nông dân không có nhu cầu
sử dụng đất để canh tác, và nông dân chỉ có thể mua bán đất hay gửi đất
vào các ngân hàng đất này. Ai muốn sử dụng đất để canh tác (trồng trọt,
chăn nuôi) thì phải có đề án khả thi, có bằng tốt nghiệp thấp nhất là
Trung cấp nông nghiệp, sẽ được các Ngân hàng đất này cho thuê lại, và
được vay vốn ưu đãi để phát triển sản xuất.
--------------
Chú thích
[1] Theo Quỹ Quốc tế bảo vệ Thiên nhiên (WWF), Việt Nam đã đánh mất 43% lượng rừng che phủ từ năm 1973 đến năm 2009.
[2] Ông Sergut Zorya, chuyên gia về nông
nghiệp của WorldBank nhận xét: “Bên cạnh những tác động khách quan ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng nông nghiệp như hạn hán, xâm nhập
mặn… thì nông nghiệp Việt Nam đang đối diện với những thách thức nội tại
như cơ chế chính sách đất đai, trình độ sản xuất và thương hiệu. Đã
vậy, áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng. Xuất khẩu tiếp tục khó khăn
cả về lượng lẫn về giá. Gạo Thái Lan có thể bán với giá 800 USD/tấn
trong khi gạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 400 USD/tấn”.
[3] Theo một số ghi nhận, thị trường
quyền sử dụng đất nông nghiệp hoạt động rất yếu, thậm chí có xu hướng
giảm. Trong số đất nông nghiệp đã chuyển nhượng thì 29% chuyển nhượng
trước 1994, 41% chuyển nhượng trong giai đoạn 1994 - 2003, 30% chuyển
nhượng trong giai đoạn từ 2004 đến nay. Mặt khác, thị trường cho thuê
đất còn kém hơn rất nhiều so với thị trường chuyển nhượng đất nông
nghiệp.
[4] Có người cảnh giác: Chủ trương tích
tụ ruộng đất có đi ngược lại mục đích của cuộc cải cách ruộng đất cách
đây hơn 60 năm không? Nếu vậy thì mục tiêu cách mạng đã thay đổi? Đâu là
cơ sở lý luận cho vấn đề này? Tích tụ ruộng rất có mâu thuẫn gì với mục
tiêu của phát triển nông nghiệp bền vững (tăng trưởng kinh tế, cộng
đồng thịnh vượng, bảo vệ môi trường)? Đặc biệt là với sinh kế của đại đa
số nông dân trong điều kiện hiện nay khi công nghiệp và dich vụ chưa
thể hấp thụ hết lao động dư thừa do “mất đất” ở nông thôn? Liệu cộng
đồng nông thôn có thịnh vượng được không hay sẽ gây bất ổn về xã hội?
[5] Chính những hộ nông dân này (nông
trại quy mô vừa và nhỏ) là những người đã làm nên kỳ tích của nông
nghiệp VN thời gian qua, họ cũng cần được đối xử bình đẳng như DN. DN
được thuê đất, mua đất, vay vốn để xây dựng NNCNC thì họ cũng có quyền
được thuê đất, mua đất, vay vốn để ứng dụng CNC vào nông nghiệp. Nông
dân với 1,5 hecta đất nông nghiệp nếu đem thể chấp ngân hàng chỉ được
vay 200-300 triệu đồng, không bằng một chủ sở hữu một ngôi nhà 40m2 có
thể thế chấp vay được 3-5 tỷ đồng! Cách làm này, vô hình trung đã hỗ trợ
cho người giàu, làm gia tăng khoảng cách giàu-nghèo, gia tăng mâu thuẫn
và các bất ổn xã hội.
[6] Trên thực tế, không ít nông hộ đã
ứng dụng CNC vào sản xuất. Đa số các nông trại chăn nuôi quy mô vừa và
nhỏ của hộ nông dân đều nuôi lợn lai, hoặc lợn siêu nạc có giống gốc từ
các "cường quốc" chăn nuôi châu Âu như Bỉ, Đan Mạch.., Bò giống từ Úc,
Bỉ, Hà Lan... nuôi theo quy trình chăm sóc nghiêm ngặt, giám sát thú y
chặt chẽ, thức ăn chế biến sẵn theo quy chuẩn, v.v... Thế đã đủ để được
gọi là CNC chưa?
-------------
Tài liệu tham khảo chính
1. Trần Quốc Toản (2013), Đổi mới quan hệ sở hữu đất đai - Lý luận và thực tiễn. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2013.
2. Trần Quốc Toản (2013), Đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển
nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Hà
Nội 2013.
3. Nông nghiệp Việt Nam đứng trước ngã ba đường,
http://dantri.com.vn/kinh-doanh/nong-nghiep-viet-nam-dang-dung-truoc-nga-ba-duong-20161030064014869.htm.
4. Luật đất đai 2013, NXB Chính trị Quốc gia, 2013
5. Nguyễn Ðình Bồng (2013). Chính sách tích tụ ruộng đất nhìn từ thực
tiễn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Cộng sản. 847 (5-2013). tr.
54-58
6. Nguyễn Cúc và Hoàng Văn Hoan (2010). Chính sách của Nhà nước đối
với nông dân trong điều kiện thực hiện các cam kết của WTO. NXB Khoa học
kỹ thuật. tr 98-209
7. Nguyễn Đình Bồng, Tạ Hữu Nghĩa (2010), “Phân tích, đánh giá vai
trò quản lý Nhà nước tác động đến tích tụ ruộng đất”, Cục chính sách
hợp tác và phát triển nông thôn Bộ Nông nghiệp.
8. Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị
gia tăng và phát triển bền vững.
9. Tích tụ ruộng đất: Giải pháp thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp,
http://baoninhbinh.org.vn/tich-tu-ruong-dat-giai-phap-thyc-hien-tai-co-cau-nong-nghiep-2016121308363601p2c21.htm
10. Báo cáo số 13-BC/NN-NT ngày 25 tháng 11 năm 2016 của Vụ Nông nghiệp-Nông thôn, Ban Kinh tế Trung ương, 2016.
11. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016, Báo cáo về tình hình tích tụ,
tập trung đất đai của một số địa phương thuộc khu vực phía Bắc, 2016
12. Dương Đình Tường, 2009. Nông nghiệp công nghệ cao: Nặng trình diễn, nhẹ hiệu quả,
http://nongnghiep.vn/nong-nghiep-cong-nghe-cao-nang-trinh-dien-nhe-hieu-qua-post36762.html
13. Đỗ Kim Chung, Nguyễn Văn Song, Trần Đình Thao, Trần Hữu Cường,
Nguyễn Việt Long, Trần Thanh Phương, Nguyễn Xuân Trạch, 2017. Tích tụ
đất đai và hạn điền; Trao đổi cá nhân
DƯỚI ĐÁY ĐẠI DƯƠNG LÀ NGỌC
Blog Tình yêu cuộc sống 12/6/2017, Hoàng Kim
'Dưới đáy đại dương là Ngọc', 'Thầy Quyền nghề nông của chúng tôi', 'Bảy Nhị chuyện cổ tích người lớn' là ba câu chuyện ám ảnh trong chuỗi bài 'Con đường lúa gạo Việt Nam'. Tôi mắc nợ câu chuyện này đã nhiều năm và chỉ neo đậu cái tựa
đề với ít tên người để thỉnh thoảng nhớ lại. Kể về họ là sự chiêm nghiệm
một đời. Chúng ta chắc vẫn còn nhớ câu chuyện “Hai cha con đều là anh
hùng” và
Trở lại nụ cười Ba Sương : “
Hậu
Giang gió nổi bời bời/ Người ta một nắng, chị thời … Ba Sương/ Theo cha
đi mở nông trường/ Sáu mươi tóc vẫn còn vương mùi phèn/ Giữa bùn lòng
mở cánh sen/ Thương bao phận khó mà quên phận mình, …” . Sự kiện ngày 15 tháng 8 năm 2009 đến nay trong lòng dân đâu đã quên và chuyện đâu đã khép lại.
Hôm bác Năm Hoằng mất, chúng tôi gần như đi suốt đêm từ Trung tâm
Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (Đồng Nai) về Nông trường
sông Hậu (Hậu Giang) để kịp viếng bác. Tôi biết ơn bác Năm đã năm lần
lội ruộng thăm đồng Trung tâm Hưng Lôc và đã gợi ý cho tôi nhiều điều.
Trong đó có một lần bác tặng cho tôi chiếc máy điện thoại di động “Cháu
giữ mà dùng, bác mua lại cái khác”, “Thông tin là cần thiết, đừng tiết
kiệm quá con ạ !” “Chưa kỹ đâu con đừng vội làm sư” “Bác có chút kinh
nghiệm thau chua, rữa phèn, lấn biến” “Hiểu cây và đất thì mới làm ra
được giống mới con ạ !” “Phải sản xuất kinh doanh khép kín mới khá được”
“Dưới đáy đại dương là ngọc !”. Những bài học của bác Năm và chị Ba đã
giúp chúng tôi rất nhiều.
Lâu nay chúng ta đã xúc động nhiều với cuộc đời bất hạnh của chị Ba
Sương nhưng hình như việc “tích tụ ruộng đất”, “xây dựng nông trại điển hình”, và “lập quỹ trái phép”, của Nông trường sông Hậu thời bác Năm
Hoằng và chị Ba Sương cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo để
rút ra những bài học sâu sắc về quan điểm, tầm nhìn, cách đầu tư khép
kín trong nông nghiệp. Không chỉ vậy, những bài học tổng kết thực tiễn kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Thế giới và Việt Nam việc soát xét 10 năm, 40 năm, 90 năm, 500 năm để tính toán một tầm nhìn trung và dài hạn vẫn chưa có những công trình xứng tầm để đánh giá thấu đáo và đúc kết những bài học phát triển. Bác Năm đã yên nghĩ, chị Ba Sương kêu án tù 8 năm
và được thả. Người đương thời chưa thể mổ xẽ và phân tích đúng sai về
cách
“tích tụ ruộng đất” và
“lập quỷ trái phép” nhưng nếu khép
lại điều này thì không thể nói rõ nhiều việc và cũng không đúng tâm
nguyện của những bậc anh hùng trượng nghĩa Nam Bộ đã quyết liệt dấn thân
trọn đời cho sự nghiệp và niềm tin ấy.
Hôm nay, khi xem bài viết 'Phát triển kinh tế nông nghiệp: Tích tụ ruộng đất không phải là yếu tố quyết định'. của ông Nguyễn Minh Nhị nguyên là Chủ tịch tỉnh An Giang, đăng trên Báo Tia Sáng ngày
8 tháng 6 năm 2017 và bài 'Tích tụ ruộng đất và phát triển nông nghiệp CNC: Khuyến nghị chính sách' của giáo sư tiến sĩ Trần Đức Viên, chuyên gia chuyên ngành Sinh thái học Nông nghiệp, Sinh thái học Nhân văn, Hiệu trưởng Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội nhiệm kỳ 2006-2016) đăng trên
Báo Tia Sáng ngày 25 tháng 5 năm 2017, tôi lần đọc lại trang viết
Thầy Quyền nghề nông của chúng tôi cùng những trang viết nông nghiệp trăn trở của Thầy. Giáo sư Mai Văn Quyền là chuyên gia thâm
canh lúa và nghiên cứu phát triển hệ thống nông nghiệp bền vững nay đã trên 82 tuổi vẫn miệt mài dạy và học nghề nông. Lòng tôi rưng rưng cảm xúc
nhớ đến “
Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời”
và tự nhắc mình phải cố gắng, nhất định phải dành thời gian cho học và
viết về nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Mỗi người chúng ta
chỉ nhỏ nhoi thôi trong sự trường tồn và đi tới mãi của dân tộc nhưng
tôi tin câu nói của Nguyễn Khải: “
Tôi viết vậy thì tôi tồn tại“.
“Viết
văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những
bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở
về với cái vô hạn”.
Tôi đọc lại
Bảy Nhị chuyện cổ tích người lớn và đồng tình với bài viết mới đây của ông về "niềm tin" và con đường sáng nông nghiệp. Tôi hoàn toàn đồng ý với luận điểm của ông: "Phát triển kinh tế nông nghiệp phải bắt đầu từ con người, từ niềm tin chứ không phải từ đất – hạn điền, tiền vốn hay khoa học công nghệ nào khác". Trong một hội thảo Quốc tế trao đổi về "Thành tựu và bài học sắn Việt Nam" tôi có nói đến bài học 6M đó là Mam Power (Con người), Market (Thị trường), Materials (Vật liệu mới, Công nghệ mới), Management (Quản lý, Chính sách) Methods (Phương pháp, Cách làm), Money (Tiền, Hậu cần, hậu phương)., Trong 6M thì yếu tố CON NGƯỜI phải là yếu tố quyết định. Ông Bảy là con người thực tiễn. Ông đã nghỉ hưu, nay viết hồi ký “Tôi đã
qua”. Ông kể lại những mẫu chuyện thực của đời mình. Sách “TÔI ĐÃ QUA”
gồm hai tập với 675 trang. Lối kể chuyện của ông là tôn trọng sự thật,
bám sát thực tế và tâm huyết. Tôi háo hức đọc và chia sẻ đôi lời cảm nhận
với bạn, để mong cùng bạn từ trong chuyện đời thường rút tỉa được đôi
điều về bài học tình yêu cuộc sống. Tôi thấm thía lời ông Bảy: Người dân hỏi chính khách làm
gì cho dân nhờ chớ không hỏi hàng ngày ông làm gì? Cụ Đồ Chiểu có cho
Tiểu Đồng nói trong thơ Lục Vân Tiên rất hay: “Đồng rằng trong túi vắng
hoe/ Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm” ! Con đường đi lên của nông
nghiệp Việt Nam thật vất vả và nhọc nhằn quá ! Nông nghiệp nông dân nông thôn Việt Nam sau khoán 10, sau nghị quyết
100, sau đổi mới, sau liên kết nông nghiệp 10 năm, hiện nay là tái cơ cấu sản
xuất nông nghiệp, … thực tế đời sống người nông dân đã tăng lên bao
nhiêu? tăng nhiều hay tăng ít ? có ổn định bền vững không? đã thật sự
công bằng chưa? Hỏi xem thu nhập thực tế của nông dân túi họ có bao
nhiêu tiền thì biết. Làm gì để chất lượng cuộc sống nông thôn tốt hơn?
Ông Bảy làm Chủ tịch Tỉnh sau làm Bí thư tỉnh An Giang là một tỉnh
nông nghiệp. Ông vất vả tổ chức cho tỉnh An Giang đi lên từ hột lúa và con cá. Ông đã có trãi nghiệm thực tế và thấm thía thật nhiều
về "niềm tin" về sự liên kết nông nghiệp, đưa hiện đại hóa, công nghiệp hóa vào nông
nghiệp, nông thôn’ Ông đã từng tìm tòi và trả giá cho những bứt phá đúng
nhưng chưa gặp thời như chuyện “Hai dự án tranh cãi”. Dự án thứ nhất là
trồng bắp thu trái non, trồng đậu nành rau và xây dựng nhà máy đông
lạnh rau quả xuất khẩu. Dự án thứ hai là nhà máy tinh bột khoai mì. Hơn 20 năm sau nhìn lại, ông viết: “
Hai dự án đầy tranh cãi mà
Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn, Chủ tịch Nước Trần
Đức Lương,… từng đến thăm mấy lần và khen ghê lắm. Dự án thứ nhất nay
lãi hằng năm cũng vài tỷ rồi cả vài chục tỷ đồng; có việc làm ổn định
cho gần một ngàn công nhân (không kể lao động ngoài nhà máy). Dự án thứ
hai, dù cho nhà máy bán đi nhưng An Giang được 9.000 ha đất từ Kiên
Giang được Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh cho, từ hoang hoá và phèn nặng
trở thành đất sản xuất 2-3 vụ/năm, lập thêm hai xã mới với gần một vạn
dân. Đây là mồ hôi và cả nước mắt của hàng vạn con người. Nhưng không có
ai tranh cãi. Chỉ có tôi và những người không đổ mồ hôi mới tranh cãi
mà thôi.” Ông vui buồn trăn trở mà nói vậy thôi. An Giang nay đã
vươn lên đứng đầu toàn quốc về sản lượng và xuất khẩu lúa, cá nhưng con
đường nhọc nhằn của nghề nông, của một kẻ sĩ tâm huyết, cánh cánh bên
lòng câu hỏi: “Người dân hỏi chính khách làm gì cho dân nhờ chớ không
hỏi hàng ngày ông làm gì?”. Tìm được câu trả lời vẹn toàn. Khó lắm!
Ôn cũ ngẫm mới tôi nhớ Đào Duy Từ
xựa mang tâm nguyện và chí hướng lớn lao như vua Trần Thái Tông “Nếu
chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng
trách cho thiên hạ trước đã”. Di sản của ông không chỉ là trước tác mà
còn là triều đại. Ông là nhà thực tiễn sáng suốt có tầm nhìn sâu rộng lạ
thường, ngay trong trước tác cũng rất chú trọng gắn thực tiễn với lý
luận. Ông đặc biệt chú trọng thực tiễn mà không theo lối khoa trương, hủ
nho của người đương thời. Tôi kính trọng những người thực tiễn, tâm huyết , biết thao thức vận
dụng học để làm trong thực tế cụ thể của chính mình, biến những điều
học ở trường, học ở trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân để làm được
điều gì đó thiết thực cụ thể cho dân, cho nước, cho cộng động xã hội
gia đình, và cho chính bản thân mình.
Ông Bảy Nhị mail cho tôi những trang hồi ký chỉ để đọc giữa một ít người
trong gia đình và thân quen. Ông vui khi đọc bài viết
Kênh ông Kiệt giữa lòng dân và nhận xét: “
HK viết lúc mình đã nghĩ hưu nên cả HK cũng
không bị ai hiểu là “tâng kẻ có chức”. Tôi thì ám ảnh bởi những điều
mình chính đời mình mắt thấy tai nghe mà không lưu lại thì khó có thể
trao truyền lại những bài học thực tiễn cho người thân và các bạn trẻ
nên tôi lựa chọn để kể.
Đọc lại và suy ngẫm. Dưới đáy đại dương là Ngọc.
Xem thêm
CON ĐƯỜNG LÚA GẠO VIỆT NAM
Lương Định Của con đường lúa gạo
Những chân dung nghề nông phác thảo
Thầy Quyền nghề nông của chúng tôi
Hồ Quang Cua gạo thơm Sóc Trăng
Phạm Trung Nghĩa nhà khoa học xanh
Nguyễn Thị Trâm người Thầy lúa lai
Bảy Nhị chuyện cổ tích cho người lớn
Từ Sắn Việt Nam đến Lúa Siêu Xanh
Những người Việt lỗi lạc ở FAO
Bùi Huy Đáp lúa xuân Việt Nam
Lê Hùng Lân gạo ngon Hoa Tiên
Kênh ông Kiệt giữa lòng dân
Ông Hồ Sáu làm kinh tế giỏi
Thầy Xuân lúa và hệ canh tác
Gạo Việt chất lượng và thương hiệu
Trò chuyện với anh Đoàn Nam Sinh
Con đường xanh của chúng ta
Công việc này trao lại cho em
Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời
Hoa của Đất
Về miền Tây
Hoa Lúa
Video yêu thích
KimYouTube