Lưu trữ Blog
22 tháng 10, 2011
Cụ Phán Men Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố
HỌC MỖI NGÀY. Blog Cao Thâm và Bee.net.vn có hai bài viết hay về cụ Phán Men Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Trưởng Thường trực Quốc hội, nhân sĩ yêu nước tâm huyết và có uy tín trong hệ thống Quốc hội, Mặt trận, Chính phủ Kháng chiến đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ đã hi sinh khi rơi vào tay giặc lúc quân đội Pháp bất ngờ nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn ngáy 7 10.1947 nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta.. Phán Men là cụ phán đi men tường. Bác Hồ đã nhắc lời Khổng Tử "Người quân tử men tường mà đi" để nói về cụ Phán làm tôi sửng sờ dụi mắt đọc lại. Cụ Nguyễn Văn Tố ngoài cùng bên trái, ảnh Bee.net
CỤ PHÁN MEN
Cao Thâm
Cách đây tròn 64 năm (ngày 7/10/1947), quân đội Pháp nhảy dù xuống TX. Bắc Cạn, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não của ta.
Thời tham gia viết sử cho Bưu điện Bắc Cạn, tôi đã được nhiều nhân chứng lịch sử như cụ Nông Văn Quang, Nguyên Bí thư Tỉnh ủy BC; cụ Doanh Hằng, nguyên Chủ tịch UBHC Kháng chiến tỉnh; cụ Trương Văn Kiên, nguyên CB Bưu điện BC v.v.kể cho nghe sự kiện này rất chi tiết. Theo các nhân chứng, sau ngày Toàn quốc Kháng chiến (19/12/1946), Trung ương Đảng, Chính phủ chuyển lên Việt Bắc. Khi đó, TX. Bắc Cạn có hàng vạn người. Vào lúc 5 giờ sáng ngày 7/10, máy bay giặc Pháp bất ngờ nhảy dù xuống TX Bắc Cạn. Chúng đã bắn giết nhiều cán bộ và đồng ta. Đồng chí Trường Chinh, khi đó là Tổng Bí thư, được 2 mẹ con người Bắc Cạn kéo xuống hầm nên thoát nạn. Cụ Nguyễn Văn Tố, khi đó là Bộ trưởng Bộ Tế bần (có tài liệu nói là Bộ trưởng Cứu tế Xã Hội – tiền thân của Bộ Lao động TB- XH ngày nay) bị rơi vào tay giặc.
Trong hồi ký "Chiến đấu trong vòng vây", Đại tướng Võ Nguyên Giáp, kể: “...Thấy cụ Tố là người chững chạc, nói tiếng Pháp yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược. Lúc biết đó không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng đã bắn chết khi ông già tìm cách chạy thoát. Đó là cụ Trưởng thường trực Quốc hội (vị trí này nay là Chủ tịch Quốc hội), nhân sĩ yêu nước tâm huyết và có uy tín. Cụ Tố hy sinh là một tổn thất lớn cho ta".
Qua năm 1948, Nhà n¬ước đã tổ chức lễ truy điệu cụ Tố. Trong bài điếu văn, Hồ Chủ tịch đã dành những lời trân trọng, thống thiết, sâu sắc để t¬ưởng nhớ cụ:
“…Nhớ cụ xưa
Văn chương thuần túy, học vấn cao sâu
Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết
Mở mang văn hóa, cụ dốc một lòng
Phú quý công danh, cụ nào có thiết
Cụ dù hy sinh, tinh thần cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệt
Chính phủ khôn xiế́t buồn rầu, đồng bào khôn xiết nỗi lòng thương tiếc..."
Cụ Nguyễn Văn Tố (1889-1947), bút hiệu Ứng Hoè, sinh ngày 5 tháng 6 năm 1889, quê ở Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Thuở nhỏ, cụ học chữ Hán, sau sang Pháp học đỗ bằng Thành chung (trung học). Về nước, cụ làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội, chuyên về văn học cổ Việt Nam. Cụ từng làm Hội trưởng hội Trí Tri, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ trước năm 1945. Sinh thời, cụ sống rất mực thước, quanh năm trong chiếc áo dài đen dân tộc, quần chúc bâu, đội khăn xếp ngay ngắn, đi giầy Gia Định. Cụ không bao giờ mặc âu phục mặc dù cụ làm việc cho một cơ quan nghiên cứu của người Pháp. Cụ cũng không bao giờ đi xe đạp hay xe kéo mà đi bộ từ nhà đến cơ quan men theo mái hiên các nhà dãy phố. Bởi vậy, cụ còn có cái tên “cụ Phán Men”.
Có một câu chuyện kể về “Cụ Phán Men”, tôi đã đọc ở đâu đó. Chuyện rằng: “Cuối năm 1945, cả nước gấp rút chuẩn bị cho Tổng tuyển cử. Những ngày đó, cụ Hồ thường cho một thư ký riêng của mình xuống liên lạc với cụ Nguyễn Văn Tố để trao đổi công việc. Nhà riêng cụ Tố ở phố Hàng Bạc. Cụ vốn đỗ cử nhân Hán học lúc mới ngoài 20 tuổi, qua Paris học tiếp 4 năm rồi về nước làm việc trong Viện Viễn Đông Bác Cổ. Là một trí thức yêu nước, cụ đã từng đứng ra tổ chức phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ được cả nước hưởng ứng mạnh mẽ. Nhiều năm cụ đi đi về về trên những con đường quanh co của khu phố cổ, bất kể mưa hay nắng bước ra khỏi nhà là cụ mang ô. Bóng một người đàn ông thấp nhỏ áo the khăn đóng đi men dưới mái hiên những ngôi nhà già nua đã thành một ấn tượng khó phai mờ trong đầu người dân Hà Nội, họ yêu quý gọi cụ là cụ Phán men.
Mỗi lần tới nhà cụ bàn việc khi đứng dậy để ra về bao giờ người thư ký cũng không quên rút từ trong cặp ra một chai rượu ngon và nói, thưa cụ, Bác cho tôi mang chai rượu xuống biếu cụ. Cụ Tố nhận rượu và cảm ơn.
Đến lần tặng rượu thứ ba, vừa đưa tay ra nhận rượu, cụ Tố vừa nhỏ nhẹ nói, nhờ anh về thưa lại là cụ hiểu lầm tôi rồi đấy. Người thư ký vội về thưa lại, Bác ngồi yên lặng hút thuốc. Rồi Bác quay ra hỏi ông cụ trách như vậy ý chú thì sao? Người thư ký nói: thưa Bác hình như cụ Tố không uống rượu. Bác Hồ bật cười, phải, chúng ta đã nhầm. Phán men không phải là Phán rượu, đây là người men tường mà đi. Quân tử nép tường mà đi, chú có biết ai đã nói thế không, là Khổng Tử nói đấy".
Cao Thâm
Nguồn: Blog Cao Thâm
"ÔNG PHÁN MEN" THÀNH CHỦ TỊCH QUỐC HỘI ĐẦU TIÊN
Nguyễn Thìn Xuân
"Ông phán men"
Cụ Nguyễn Văn Tố (1889-1947) hiệu là Ứng Hòe, một nhà trí thức yêu nước nổi tiếng, nguyên Trưởng ban thường trực Quốc hội(tức Chủ tịch QH), Bộ trưởng Bộ Cứu tế - xã hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã hy sinh tại Bắc Cạn năm 1947.
Cụ sinh 5/6/1889 trong một gia đình nho giáo, gốc Hà Nội (tại làng Đông Thành, huyện Thọ Xương cũ).Tốt nghiệp trường Thông ngôn, cụ đến làm thư ký tòa soạn bộ kỷ yếu (D.P.C.H.V). Từ nhân viên phụ tá, cụ lên chức chủ sự Học viện Viễn Đông Bác cổ, một cơ quan nghiên cứu lịch sử văn hoá của người Pháp ở 26 phố Lý Thường Kiệt. Ngoài thời gian làm việc ở công sở, cụ thường viết bài in trên các báo chí tiếng Việt như tạp chí Tri Tân, Đông Thanh, Thanh Nghị… và các báo chí tiếng Pháp về nhiều lĩnh vực như văn học, nghệ thuật…
Cụ đã soạn thảo được hai bộ sử học đồ sộ "Đại Nam dật sử”, "Sử ta so với sử Tàu” rất công phu, nghiên cứu, đối chiếu nhiều nguồn thư tịch, tranh luận kịch liệt với các nhà sử học Pháp ở Đông Dương để làm sáng tỏ chân lý một cách khoa học. Rất tiếc bộ “Sử ta so với sử Tàu”, cụ mới soạn đến cuối đời nhà Lý, sau đó ít lâu cụ bị hy sinh nên còn dang dở.
Các nhân viên của EFEO năm1937. Hàng đầu bên trái là Louis Bezaceer, cụ Nguyễn Văn Tố ở hàng thứ hai, đứng giữa ông George Coedes và bà Madelene Colani. Ảnh: Xưa và Nay.
Cụ Nguyễn Văn Tố không những uyên thâm Hán học mà tinh thông cả Tây học. Ngay cả với ông Nguyễn Thiệu Lâu, giáo sư trường Khải Định (Huế), có 5 bằng cử nhân KHXH, khi nhờ cụ xem bản thảo, cụ cũng gạch đỏ, ghi rõ lỗi thuộc loại nào khiến ông Lâu cũng phải tâm phục, khẩu phục. Người Pháp cũng rất kính nễ ông. Bezacier, chuyên viên khảo cổ học người Pháp cũng phải nhờ cụ sửa bài. Ông Coedès ,Giám đốc Viện, khi đưa bài cho cụ, nói hẵn với cụ rằng: "Có sai cứ sửa, nếu sau này có ai chỉ trích một điểm gì là lỗi ông đó”.
Trong số 128 vị sáng lập hội Trí Tri, có tên 20 người Pháp, đứng đầu là toàn quyền P.Doumer. Năm 1934 - 1935, cụ Nguyễn Văn Tố, thành viên cũ của Hội Đông kinh nghĩa thục được bầu làm Hội trưởng của Hội Trí Tri thay cho Phạm Quỳnh được Bảo Đại vời vào Huế làm thượng thư bộ Học. Bởi vậy, ở Việt Nam, đầu thế kỷ XX, danh tiếng của cụ được xếp vào loại tứ danh kiệt “Quỳnh, Vĩnh, Tố, Tốn” (Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn).
Cụ sống rất mực thước, quanh năm trong chiếc áo dài đen dân tộc, quần chúc bâu, đội khăn xếp ngay ngắn, đi giầy Gia Định. Cụ không bao giờ mặc âu phục mặc dù cụ làm việc cho một cơ quan nghiên cứu của người Pháp. Cụ cũng không bao giờ đi xe đạp hay xe kéo mà đi bộ từ nhà đến cơ quan men theo mái hiên các nhà dãy phố. Bởi vậy, đương thời, cụ còn có cái tên “ông phán men”.
Lập hội truyền bá chữ Quốc ngữ
Tuy nhiên điều làm cho người dân đất Việt còn mãi mãi ghi ơn công đức của cụ là việc cụ tham gia sáng lập ra Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ để mong “95% dân số Việt Nam không biết một thứ chữ gì” (thống kê của Nha học chính Đông pháp năm 1938) được học chữ quốc ngữ, một thứ chữ chỉ cần học 3 thàng là có thể biết đọc, biết viết - một thứ chữ mà ngày nay “ như sinh ra là đã có thứ chữ này rồi” (nhà văn Hoàng Tiến).
Cụ Nguyễn Văn Tố đã cùng lớp trí thức đầu thế kỷ XX như các ông Trương Văn Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Lương Văn Can, Phan Kế Bính, Vũ Đình Hòe… phát động công cuộc Cách mạng chữ quốc ngữ. Đầu năm 1938, theo đề nghị của Trường Chinh, xứ ủy Bắc kỳ quyết định vận động một tổ chức công khai chống nạn mù chữ và giao cho Trần Huy Liệu, chủ bút báo Tin Tức cùng các ông Đặng Thai Mai, Võ nguyên Giáp, giáo sư trường tư thục Thăng Long, tập hợp một số tri thức tiêu biểu như Bùi Kỷ, Hoàng xuân Hãn, Quản Xuân Nam… họp tại nhà ông Phan Thanh bàn bạc thành lập một tổ chức lấy tên là Hội truyền bá học chữ quốc ngữ. Các thành viên nhất trí cử cụ Nguyễn văn Tố làm Hội trưởng, đặt trụ sở tại hội quán Trí Tri ở phố Hàng Quạt số nhà 47, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Sau những ngày thành lập, Hội TBQN lần lượt được thành lập ở cả Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ. Mặc dù thưc dân Pháp đã phải công nhận việc thành lập nhưng chúng ra sức ngăn cản, tìm mọi cách phá rối, cản trở Hội hoat động. Đại tướng Võ nguyên Giáp đã từng phải nói: "Đi học lúc bấy giờ là đi làm cách mạng”.
Tuy Hội TBQN chỉ hoat động đến Cách mạng tháng 8 nhưng cũng đã giải phóng cho được gần 7 vạn người thoát nạn mù chữ, là vườn ươm cho ngành Bình dân học vụ do Bác Hồ kính yêu sáng lập ra sau ngày 3/9/1945.
Chủ tịch Quốc hội đầu tiên
Cách mạng tháng 8 mới thành công, bộn bề khó khăn, thù trong giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Nguyễn văn Tố mới có dịp gặp nhau. Mến vì đức, trọng vì tài, Bác Hồ mời cụ Tố ra giúp nước. 2 triệu người chết đói năm Ất Dậu đang đè nặng lên xã hội.
Được Bác Hồ phân công, cụ Tố sẵn lòng nhận nhiệm vụ là Bộ trưởng Bộ Cứu tế - xã hội (nay là Bộ LĐ-TB-XH) trong Chính phủ Hồ Chí Minh. Sau tổng tuyển cử đầu tiên, cụ trúng cử đại biểu Quốc hội với tư cách là đại biểu tỉnh Nam Định. Trong cuộc họp Quốc hội sau đó, cụ đươc bầu là Trưởng ban thường trực Quốc hội (ngày nay là Chủ tịch Quốc hội) khóa 1 và cho đến ngày 8/11/1946, cụ Bùi Bằng Đoàn thay thế. Ngày 3/11/1946, cụ lại giữ chức Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ.
Giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta, ngày 7/10/1947, chúng cho quân nhảy dù xuống Bắc Kạn âm mưu tiêu diệt đầu não kháng chiến, cụ bị chúng bắt và giết: ” Thấy cụ là người chững chạc, nói tiếng Pháp yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược. Lúc biết đó không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng đã bắn chết khi ông già tìm cách chạy thoát. Đó là cụ Trưởng ban thường trực quốc hội, nhân sĩ yêu nước tâm huyết và có uy tín. Cụ Nguyễn Văn Tố hy sinh là một tổn thất lớn cho ta” ( Hồi ký “Chiến đấu trong vòng vây” - Võ Nguyên Giáp).
Sang năm 1948, sau khi đánh tan âm mưu tấn công của thực dân Pháp Nhà nước ta đã tổ chức lễ truy điệu cụ Tố. Trong bài truy điệu, Hồ Chủ tịch đã dành những lời trân trọng, thống thiết: "…Nhớ cụ xưa/ Văn chương thuần túy, học vấn cao sâu/ Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết/ Mở mang văn hóa, cụ dốc một lòng/ Phú quý công danh, cụ nào có thiết”…
"Chúng tra tấn cực kỳ dã man, tàn khốc/ Cụ trả lời chúng bằng một nụ cười oanh liệt/ Chúng làm hại cụ, lịch sử Pháp muôn đời thêm một vết xấu xa…/Cụ dù hy sinh,tinh thần cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệt/
"Chính phủ khôn xiết buồn rầu, đồng bào khôn xiết nỗi lòng thương tiếc".
Nói đến nhà trí thức lớn của đất nước, nhà bác học “thông kim bác cổ” (lời Giáo sư Nguyên Xuân), “nhà sử học anh hùng” (GS Hà Văn Tấn), nói đến vị liệt sỹ Bộ trưởng đầu tiên đã ngã xuống vì nền độc lập còn non trẻ của nước nhà, ai cũng thấy cuộc đời và sự nghiệp của cụ thật đáng khâm phục.
Tuy nhiên, đến ngày nay, ai cũng xót thương cho linh hồn của cụ, vẫn còn lang thang nơi rừng thiêng của tỉnh Bắc Kạn, cám cảnh không có nơi cho đồng bào cả nước đến cắm nén nhang thơm viếng cụ.
Nguyễn Thìn Xuân
Nguồn: Bee.net
Trở về trang chính
CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC
16 tháng 10, 2011
Chó sủa, sáng đèn và đạo chích
HỌC MỖI NGÀY. Chó sủa, sáng đèn và đạo chích một bài viết hay của Phan Hồng Giang đăng trên Viet-Studies..
Phan Hồng Giang
Các nhà xã hội học thường có thói quen nghề nghiệp là bày vẽ ra các cuộc điều tra thăm dò ý kiến người dân về đủ các loại vấn đề, - từ chuyện to như "Bạn muốn thấy ai trong vai ông chủ Nhà trắng?", "Theo bạn, ai là người phụ nữ quyền lực nhất thế giới?" cho đến những chuyện khá tầm phào như "Theo anh (hay chị), loại dầu gội đầu nào kể sau đây giúp tóc bạn sạch gầu, suôn mượt, óng ả?" v.v và v.v...
Thế rồi tôi vẫn phải đôi chút vị nể trí tưởng tượng khá dư thừa của một nhà xã hội học ở tít bên bang Texas xa xôi từ mấy chục năm trước đã hạ cố tìm đến phỏng vấn loại người gần như bị lãng quên là vài trăm vị đạo chích đang thụ án trong các nhà tù của bang với câu hỏi không úp mở: "Trước đây, trong những lần đi ăn trộm, ông (hay bà) đã sợ nhất cái gì?". Và kết quả điều tra thật thú vị: hơn 95% số đạo chích được hỏi thành thực cho biết bọn họ sợ nhất là tiếng chó sủa khi phát hiện có trộm và có đèn sáng quanh ngôi nhà mục tiêu.
Thế là rõ: với những kẻ làm điều khuất tất, sợ nhất là có sự đánh động (ở đây là tiếng chó sủa!) khiến hành vi gian tà bị hiển lộ; sợ không kém là có ánh sáng dọi chiếu để mọi ý đồ đen tối không có cơ hội được che dấu. Không có gì ngạc nhiên khi các đạo chích cho biết giải pháp đối phó với mối hiểm nguy nói trên là phải đánh bả chó trộn thịt nướng thơm phức để bịt mõm chó sủa và phải dùng súng cao su chẳng hạn để bắn vỡ đèn chiếu sáng trước khi vượt tường trèo qua...
Tiếc thay, những kẻ muốn trục lợi, muốn chiếm đoạt những gì vốn không phải của mình lại không chỉ có đám đạo chích. Đạo chích kiểu trèo tường, khoét ngạch là thứ cổ xưa như ... trái đất, có thể coi là "đạo chích thế hệ 1.0". Đạo chích thời nay đã chuyển mạnh sang thế hệ 2.0, 3.0 ... rồi, nhưng nền tảng vững chắc để kiếm ăn vẫn là triệt tiêu tiếng chó sủa cảnh báo và ánh sáng đèn công minh chiếu dọi. Nói một cách văn vẻ thì thiếu minh bạch, thiếu công khai chính là mảnh đất không thể mầu mỡ hơn cho nấm độc, cỏ dại nẩy sinh và phát tán...
♦
Tài chính không minh bạch, công khai là điều kiện tiên quyết cho bọn đục khoét quỹ công ung dung ẵm hàng chục tỷ đồng cao chạy xa bay rồi mọi người mới tá hỏa tam tinh hay biết. Phải chi các khoản thu chi được cáo bạch công khai định kỳ ít ra là hàng quý thì đâu đến nỗi tiền của dân đổ xuống sông xuống biển!
Các quy hoạch sử dụng đất, mở đường, xây dựng khu dân cư... không ít khi được xác lập trong cửa đóng then cài; các ý đồ" thẳm sâu" được giữ kín; thường là đã có không ít kẻ có điều kiện "tiếp cận thông tin gốc" thu lợi kếch xù rồi thì những ý đồ quy hoạch mới có dịp được công khai mà những thay đổi xoành xoạch của nó không mấy khi được cập nhật thường xuyên.
Đề án bổ nhiệm cán bộ u u minh minh, đủ các thứ quy trình này nọ xem ra có vẻ nghiêm ngặt lắm, nhưng ai cũng biết tiếng nói quyết định nằm ở đâu và vì lý do đầu tiên là gì. Chẳng thế mà trước mỗi lần có đợt thay đổi lớn về bố trí cán bộ là các bác tài xe công (loại xe con 4 chỗ) lại được dịp trổ tài phục vụ vô điều kiện, không kể giờ giấc, nắng mưa, cho sếp của mình lao vào cuộc đua cửa sau mà thiên hạ cũng không còn coi là chuyện bí mật khi đặt tên cho loại "thể thao - điền kinh" này là môn "chạy chức, chạy quyền". Nhiều Nghị quyết của Đảng đã thừa nhận "cán bộ yếu kém là nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây ra tình trạng yếu kém nói chung của nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội".Tình trạng này sẽ còn lặp lại, không bao giờ cải thiện được nếu công tác cán bộ không thực sự được minh bạch, công khai; nếu nhân dân chưa có điều kiện để thực sự có tiếng nói quyết định trong việc xuống - lên của các bậc "cha mẹ" dân; nếu cái tài, cái đức của các quan chưa có dịp được cạnh tranh lành mạnh trước sự đánh giá minh bạch của mọi người, của công luận; và nếu người quyết định bổ nhiệm ai đó chưa phải chịu trách nhiệm công khai về kết quả sai lầm nhỡn tiền của mình trong sử dụng cán bộ...
Còn có thể nói dài dài về tình trạng tiêu cực ở nhiều lĩnh vực khác nữa để thấy sự cần thiết của minh bạch, công khai trong quá trình lành mạnh hóa xã hội. Nhân đây, xin nhắc lại lời cụ K. Marx,- nguời đề xướng chủ thuyết mà ở xứ ta hiện nay vẫn tôn vinh là "kim chỉ nam của hành động" -, khi phê phán bộ máy thống trị thời đó đã rành rẽ "bắt mạch kê đơn" như vầy: "Thói quen thâm căn cố đế của đám quan liêu là vô cùng ưa thích ghé tai thì thào mọi chuyện!". Quả là "chuẩn không cần chỉnh!". Thì thào để bưng bít thông tin, thì thào để trục lợi cho mình, cho phe cánh của mình. Một cách làm cũ xưa như... Trái đất!...
Lại nhớ đến một lần đàm đạo với nhà văn đàn anh Nguyễn Khải - nay đã thành người thiên cổ - dịp ông ra Hà Nội dự Đại hội nhà văn lần IV (tháng Mười 1989). Dạo ấy, sau Cải tổ ở Liên Xô, Đổi mới ở nước ta cũng đang vào form. Biết tôi vừa từ Nga về, anh Khải hỏi:
- Theo cảm nhận của cậu thì Cải tổ ở Liên Xô là gì vậy?
- Là Dân chủ, là Công khai hóa những gì xưa nay ưa giấu giếm!...
Anh Khải gật gù tán thưởng và nói tiếp luôn:
- Vậy thì Đổi mới là NÓI TO lên những gì xưa nay vẫn THÌ THÀO!
Hóa ra Đông hay Tây, cổ hay kim, triết gia hay văn sĩ... đều có thể nghĩ giống nhau.../.
Nguồn: http://www.viet-studies.info/PhanHongGiang_ChoSuaSangDenDaoChich.htm
Trở về trang chính
CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC
28 tháng 9, 2011
Học biết ơn và học khen chê
HỌC MỖI NGÀY Điềm tĩnh trước khen chê là thái độ của người hiền trí sáng suốt. Khen không chỉ cho thấy tài năng người được khen mà còn cho thấy bản lĩnh, nhân cách của người khen. Chê mà để người được chê tâm phục khẩu phục và hàm ơn là bậc thầy. Chê không đúng, chê sai là tự mình tạo ra kẻ thù và sự xem thường. Khen không đúng, khen bừa là tự mình hạ nhân cách mình . Cổ nhân có câu: "Người khen đúng là bạn ta, người chê đúng là thầy ta". Biết ơn và biết khen chê là một trong những việc đầu tiên của học làm người , thường tùy thuộc Tâm Trí và Tầm. Người biết ơn và biết khen chê trước hết phải có Tâm, có nhân cách vì nhiều khi nói vậy nhưng làm không phải vậy, kế đến là phải giàu Trí tuệ và đủ thông tin và sau cùng phải có Tầm để biết nghe , biết chắt lọc thông tin và xử lý sáng suốt., biết khen chê ai, lúc nào và khen chê điều gì cho đúng. Ba bài báo hay gần đây để tham khảo: Điềm tĩnh trước khen chê, Giai thoại Thế à ? đăng trong Học biết ơn và học khen chê . Vũ Quần Phương : Đừng tưởng khen là dễ và Nguyễn Trọng Tạo: Nhà phê bình - người bạn lớn của những nhà sáng tác
ÐIỀM TĨNH TRƯỚC KHEN CHÊ
Phản ứng tâm lý thông thường của chúng ta khi được khen chê thì khoái chí, vui vẻ, sung sướng, khi bị chê thì bực bội, tức tối, đau khổ. Ðó là hai thái cực của một tâm thức, mà theo đức Phật đều có hại, đều là phản ứng bất toàn. Bởi vì, từ đó sự hiểu lầm, tranh chấp, phiền não và thiếu hiểu biết sẽ khởi ra.
Một hôm, đức Phật và chúng Tỳ kheo đi trên con đường giữa Ratãgahã và Nalandã. Ði sau là tu sĩ ngoại đạo Suppiyo và một đệ tử là Brahmadatta. Suppiyo dùng vô số phương tiện hủy báng Phật, hủy báng Pháp, hủy báng Tăng. Trái lại, thanh niên Brahmadatta dùng vô số phương tiện tán thán Phật, tán thán Pháp, tán thán Tăng.
Khi đêm vừa tàn, chúng Tỳ kheo đem sự việc trên bàn luận với nhau. Ðức Phật đi đến, sau khi biết tự sự Ngài dạy rằng:
"Này các Tỳ kheo, nếu có người hủy báng ta, hủy báng Pháp, hủy báng Tăng, các ngươi chớ vì vậy sanh lòng căm phẩn, tức tối, tâm sinh phiền muộn..."
"Này các Tỳ kheo, nếu có người tán thán ta, tán thán Pháp, tán thán Tăng, thời các ngươi không nên hoan hỷ, khoái trá, tâm không nên thích thú..."
Sỡ dĩ đức Phật dạy như thế, vì Ngài cho rằng khi bị chê trách thì tức tối, khi được khen ngợi thì khoái trá đều có hại, và không biết chính xác được lời nói của những kẻ ấy đúng hay sai sự thật.
Ðối với chúng ta khi bị hủy báng, nhục mạ thì vội vàng chống trả một cách quyết liệt, coi kẻ chê trách như một địch thủ, không đội trời chung. Cách đối phó như thế thường được nhiều người tán đồng và cho là khôn ngoan nữa. Trái lại, nếu ta làm thinh nhẫn nhục chỉ xét nét lại mình thì bị chê trách. Trái lại, nếu ta làm thinh nhẫn nhục chỉ xét nét lại mình, thì bị chê là kẻ ngu khờ.
Thế tại sao đức Phật khuyên chúng ta không nên công phẫn, tức tối? Bởi lẽ khi tức tối phiền muộn nổi lên thì cái hại đến với chúng ta tức khắc, là mất sự an lành điềm đạm của nội tâm, kế đến sự cãi vã, tranh luận xô xát diễn ra và cuối cùng cả hai bên đều không thấy được chân lý. Trong kinh Tứ thập Nhị Chương, Ðức Phật dạy rằng:
"Khi bị kẻ xấu quấy phá, nhục mạ hãy cố nín lặng như người đem lễ vật biếu người khác, họ không nhận, thì lễ vật ấy được trả lại. Cũng như người ngửa mặt nhổ bọt lên trời, bọt chẳng tới trời, trái lại rơi vào mặt mình..."
Như thế khi bị hủy báng, không nên vội vàng phản đối, mà phải xem xét điểm nào đúng với sự thật, điểm nào không đúng sự thật, điều nào mình có điều nào mình không có với một thái độ điềm tĩnh, thành thật, khách quan. Xử sự như thế, thì lời hủy báng ấy được trả lại cho người, còn mình vẫn an ổn, tự tại.
Ða số chúng ta khi được khen ngợi, tâng bốc thì sung sướng mặt tươi như hoa buổi sớm, thích gần gủi những người tán thán mình. Cách ứng xử như thế được người đời cho là hợp lý, thích nghi. Thế tại sao Ðức Phật bảo là có hại và khuyên chúng ta không nên phản ứng non kém, dễ bị người lợi dụng, lường gạt, cho đi máy bay bằng giấy? Qua lời đường mật của họ, chúng ta dễ biểu đồng tình và chấp nhận những yêu cầu thiếu sáng suốt, cuối cùng chúng ta không thấy được sự thật một cách chắc chắn. Hơn nữa, một Tỳ kheo mà bộc lộ sự hoan hỷ, khoái chí một cách nồng nhiệt qua lời khen ngợi biểu thị sự thiếu tế hạnh và mong cầu danh vị, dễ bị sa vào chén mật của kẻ tà tâm. Dù được tán thán một cách chân thành, chúng ta cũng phải xem xét điều nào đúng với sự thật, điều nào không đúng với sự thật, điểm nào mình có, điểm nào mình không có, để tránh trường hợp bị mù hoặc sa vào nẻo hư danh.
Khen và chê là hai tác động tương phản, luôn luôn làm chao động nội tâm chúng ta, kích thích sự hưng phấn hay ức chế, đem lại sự an lạc hay phiền não, có lợi hay bất lợi, là tuỳ thuộc cả hai đối tượng: trao và nhận.
Trong lãnh vực giáo dục, khen thưởng và chê trách đều là hai lợi khí được sử dụng song song. Trước đây nền giáo dục Ðông Phương đặt nặng vấn đề trừng phạt chỉ trích, trong khi nền giáo dục Tây Phương chú trọng sự tưởng thưởng khen ngợi. Cách vận dụng ấy là thuộc vào nền văn hoá, phong tục của mỗi phương, vì vậy hậu quả cũng có phần sai biệt.
Thiết nghĩ người khen ngợi hay chỉ trích, chỉ mang lại kết quả tốt đẹp, khi nào họ biết sử dụng hai lực tương phản này đúng lúc, áp dụng đúng tâm lý từng đối tượng, phải thành thật trong tinh thần thiết tha xây dựng cầu tiến. Ngược lại một người khen, chê thiếu trách nhiệm, thiếu khách quan và có dụng tâm không tốt, chính bản thân người ấy hoàn toàn chịu trách nhiệm về hậu quả chẳng lành.
Người được khen hay bị chê, dù ở trong trường hợp nào cũng phải dè dặt, xem xét và phán đoán một cách chính xác, không nên có những phản ứng bồng bột nông nổi, mới tránh được sự sai lầm, tai hại. Nói cách khác không quan trọng hóa khen hay chê, mà phải tìm hiểu sự thật, chân lý trong lời khen chê ấy.
Tóm lại, điềm tĩnh trước khen chê là thái độ của người hiền trí sáng suốt mà người con Phật cần nên tu tâm.
Tỳ kheo Siêu Việt
Nguồn: Phật giáo và đời sống - Nghệ thuật sống
theo buddhanet.net
CHÊ KHEN
Hai danh từ "Chê, Khen" thoạt nghe qua có vẻ tầm thường, nhưng thực ra là hai danh từ chứa đựng nhiều chất nổ nhất. Chiến tranh xảy ra, binh khí miệng lưỡi chạm nhau, con người phỉnh mũi hay hậm hực chực chờ nhau cũng chỉ vì mê muội trong hai danh từ ghê gớm "Chê, Khen".
Bạn định nghĩa "Khen,Chê" thế nào?
"Khen" là tán thán, thưởng thức, là xưng tụng, tán dương cái gì đẹp, cái gì đúng, cái gì hay, cái gì phải, cái gì tốt . . . có phải thế không?
"Chê" là nhận xét, là phê phán những cái chưa tốt, cái yếu kém, cái tiêu cực, cái khuyết điểm của một người, một hiện tượng hay một vật nào đó.
Bạn có đồng ý cái định nghĩa đại khái của tôi về Khen Chê như vậy chứ?
Thói thường, tâm lý chung con người là thích nghe khen hơn là chê; nghe khen dễ hơn là nghe chê. Nhưng thử hỏi làm sao sống trên cõi đời tương đối này, người ta chỉ có đúng mà không bao giờ sai, chỉ có ưu điểm mà không bao giờ có khuyết điểm, chỉ có khen mà lại không bị chê bao giờ?
Thánh nhân còn chưa được toàn hảo, huống chi là phàm tục chúng ta; và thường thì những người không chịu theo một khuôn mẫu cố định nào, một đường xưa lối cũ nào, một đường mòn nào, luôn luôn đổi mới, luôn luôn sáng tạo, luôn luôn nghĩ và làm, là những người dễ mắc nhiều sai lầm nhất, (dù thiên tài vĩ nhân đi chăng nữa cũng không thể tránh khỏi sơ sót thất thố - Trần xuân Tuyết) và bị chê, phê phán nặng nề nhất như đại triết gia Socrates đã bị những kẻ ngu xuẩn cuồng ngông phê phán lên án năng nề đến nỗi xử tử hình ông bằng thuốc độc; Galileo cũng bị người đương thời bỏ tù vì dám nói trái đất hình tròn và xoay quanh mặt trời; Martin Luther King Sr. bị công kích ám sát vì dám đòi hỏi bình quyền dân chủ; Mohammed Gandhi chết thảm vì công khai tranh đấu bất bạo động v.v. Tất cả những vĩ nhân, giáo chủ không ai tránh khỏi sự bình phẩm khen chê của loài người; ngay cả một con người tầm thường như tôi đây cũng đã là đề tài cho nhiều phiếm luận đó đây, tại quê nhà hay xứ lạ.
Qua kinh nghiệm bản thân hay bị phê bình chỉ trích, tôi rút ra được một nhận xét thô thiển và lấy đó làm mực thước tu tập đo lường nội tâm chính mình khi đối cảnh.
Theo tôi, người chỉ trích phê phán ai cần phải có một trình độ uyên bác, phẩm chất đạo đức tốt và công tâm thì mới chê đúng, khen đúng được. Còn người bị chê cũng cần phải có năng lực, bản lãnh đón nhận, tiếp thu ý kiến thì mới tiến bộ được.
Người có trình độ cao nhưng phẩm chất đạo đức kém thì khó lòng phê bình đúng đắn. Người bảo thủ, trì trệ, hoặc hẹp hòi, định kiến thì có khi dùng chê để phủ định những cái tích cực, tốt đẹp của người khác (Trần xuân Tuyết) - và tệ hơn thế nữa, hiện nay, đây đó lại có người dùng võ khí "Chê" để loại trừ nhau, để tự tâng bốc mình, để cầu mong lợi dưỡng của người đời. Buồn cười nhất là tệ trạng đó lại đầy dẫy trong tôn giáo khiến tín đồ thất vọng, nản lòng, bỏ đạo. Vì thế, khi phê bình một người nào, chúng ta cần phải có công tâm và thiện chí . Công tâm để phê bình trung thực, khách quan, vô tư, không bị tình cảm chi phối, và thiện chí mong cầu sửa đổi cái xấu của người, bổ túc khuyết điểm của người để khuyến khích, thúc đẩy người cùng phát triển tiến bộ.
Song, chê đã là một việc khó, nhưng có năng lực và bình tĩnh để nghe chê cũng không phải dễ. Người bị chê cần phải có một năng lực "nghe" và phân tích xem người ta chê mình đúng hay sai, hợp lý hay không hợp lý, công bằng hay thiên lệch v.v. Như trên đã nói, tâm lý chung con người thường thích được khen, tâng bốc hơn là bị chỉ trích phê bình nên chúng ta sẽ dễ nhận rõ được mình khi bị người khác hất vào mặt một lô danh từ ghê gớm và rác rến. Tôi đồng ý với Trần xuân Tuyết, tác giả bài viết "Chê và Bị Chê":
"Nếu vừa bị chê, chúng ta đã đỏ mặt tía tai là bản lãnh chúng ta còn thật kém cỏi, không bao giờ có được "bạn hiền". Vừa bị chê, đã sợ sệt, là nhu nhược, khó lòng đi xa trên con đường sáng tạo cho đời cũng như cho chính bản thân. Bị chê, nhưng lạnh lùng không tiếp thu, xem xét lại mình, là khinh mạn, kiêu căng, là phản bội lại chính mình. Bị chê, vờ vịt nhận thiếu sót cho đẹp lòng người chê là giả dối. Những người bảo thủ và tự đại, những người hống hách và độc đoán, những người dốt nát mà hợm hĩnh, thường ít có khả năng chịu đựng được lời chê."
Tóm lại, chúng ta phải cố gắng luyện tâm cho vững để giữ lòng bình thản trước khen hay chê, như Ðức Phật đã dạy trong Kinh Pháp Cú:
"Như tảng đá vững chắc,
Không lay động trước gió,
Người trí cũng như vậy,
Không lay động, xao xuyến,
Luôn luôn an trụ tâm,
Trước khen chê, vinh nhục,
Thành công hay thất bại,
Ðúng sai hay tốt xấu."
Nếu được như thế, chúng ta mới có thể đi trọn con đường lý tưởng tiến về Thánh Ðịa.
Hãy trân trọng từng phút giây bạn sống,
Hãy nâng niu từng tình cảm trên tay,
Hãy ấp yêu tùng hạnh phúc tràn đầy,
Và sống đẹp trong Yêu Thương cùng Hiểu Biết
Bạch Hạc
Nguồn : Bachhac.net http://www.bachhac.net/bv/chekhen.htm
THẾ À ?
Ngày trước, khi đọc chuyện thiền sư Hakuin, mình không hiểu nổi sao ngài có thể cứ nhếch mép mỗi một câu: “Thế à?!” Những khi bị ai đó xúc phạm: Khi người ta hùng hổ kéo đến sỉ vả, vu oan rằng ngài làm cho một cô gái mang thai, ngài lạ lẫm: “Thế à?!”; khi người ta mang giao đứa trẻ bảo đây là con của ngài, bắt ngài phải nuôi dưỡng nó, ngài thản nhiên: “Thế à?!” rồi lặng lẽ nhọc nhằn nuôi đứa trẻ; khi đứa trẻ lớn lên, người ta đến bắt lại, bảo nó không phải là con của ngài, vật vã sám hối xin lỗi ngài, ngài điềm nhiên tự tại nhẹ bẫng: “Thế à?!”. Ôi trời, mình tự nhẩm tính: Hai chữ “Thế à” này ta phải gồng mình đến cỡ nào thì mới nói nổi?!
Vậy mà rồi tự dưng có một ngày, nắng gió cũng bình thường, thời tiết đúng như đài dự báo, bỗng dưng lòng mình phẳng lặng như cái mặt hồ… trên hình vẽ.
Khi ta giải quyết một vấn đề với bạn đồng nghiệp, chẳng hiểu gì mà lại cứ vênh vênh chứng tỏ thông kim bát cổ, lên giọng dạy dỗ, ta chỉ thấy mắc cười và suýt thì buột miệng “Thế à?!”. May mà còn chút sĩ diện để không ăn cắp bản quyền của thiền sư Hakuin một cách thô thiển khi chưa biết sáng tác ra từ gì khác để thốt lên, đành chỉ biết cười thôi. Cám ơn má đã sinh ra con còn tặng kèm cái thẻ đa năng nụ cười, con xài vào chuyện gì cũng được.
Khi có kẻ khích bác chê bai rằng ta nhút nhát, bất tài, chỉ lo yên ổn cho bản thân mình v.v… Ta tỉnh queo giơ cái thẻ đa năng nụ cười ra xài một phát, gật đầu dũng cảm công nhận là mình có những cái xấu mà đối phương nhận xét, thế là đối phương chán nản thu nắm đấm vì chẳng thú vị gì khi giang tay đấm cật lực vào bị bông.
Đâu cần phải tốn sức thanh minh. Giản đơn ta nghĩ: Thứ nhất không vì ai đánh giá ta giỏi thì ta giỏi, đánh giá ta dở thì ta dở. Ta giỏi dở cỡ nào vốn đã được lập trình rồi. Thiên hạ có khen hay chê ta vạn lần thì thực chất khả năng, bản chất ta cũng chẳng thể vì thế mà tăng lên hay thấp xuống. Khi ta trồng được cây hoa, mọi người bu lại rải lời khen chê ào ạt thì cây hoa cũng chẳng đẹp hơn hay xấu đi, đẹp hơn hay xấu đi tùy thuộc vào khả năng chăm bón của ta thôi. Thế nhưng thiên hạ ai cũng mê mẩn với lời khen và tê tái trước tiếng chê, đánh mất sự tỉnh táo. Thứ hai: Ta phải dũng cảm mà công nhận rằng những điều ta bị chê trách cũng có phần đúng, việc gì phải ém đi, không thừa nhận để cứ sống trong ảo tưởng về mình. Mình mắc cười nhất là mỗi khi bị chê ngu thì anh chị nào cũng nhảy chồm lên cơn tự ái, hổng ai chịu nhận rằng mình ngu, dù thật sự mình ngu đến mức không biết mình ngu! Sở dĩ ta nhảy chồm lên tự ái, cãi phăng rằng mình không ngu vì ta cho là đứa nói mình ngu còn ngu hơn mình, nó không đủ tư cách để nói mình ngu. Ta không tỉnh táo để lo tìm hiểu đúng vấn đề mình ngu như thế nào, mà cứ lo săm soi tư cách người nói mình ngu, ví như khi có đứa nói áo ta bị rách, ta liền gườm mắt soi liền quần thằng đó có rách không, chớ hổng lo dòm ngó lại mình.
Đời ngược xuôi rối rắm tứ tung, thiện ác đúng sai xà quần đảo lộn, giữ cho mình không bị lôi cuốn theo dòng là khó vô cùng. Thôi thì biết phận bèo chẳng cách gì không trôi theo nước, trót sinh ra ở cõi này thì phải gánh nghiệp của cõi này, chỉ biết ráng cố gắng làm sao giữ chút thăng bằng để bập bềnh thảnh thơi trên nước; thuận theo thời tiết bốn mùa mà nở hoa phải phép dâng đời.
Ta lắng lòng tập trung sáng suốt vào mục đích, đừng bị ảnh hưởng bởi những lao chao không cần thiết, hãy học cách của thiền sư để biết “Thế à?!” khi sóng gió chồm dập lóc chóc xung quanh. Giữ tâm bình an mà xuôi ngược đảo quay giữa dòng đời cho vững.
Nguồn: Đạo Phật ngày nay
Bài viết chọn lọc Thế à ?
23 tháng 9, 2011
Nguyễn Khải thuở chưa thành nhà văn
HỌC MỖI NGÀY. Anh Lê Thiếu Nhơn vừa đăng bài của Vân Long "Nguyễn Khải thuở chưa thành nhà văn" Trong hồi ký nghề nghiệp, nhà thơ Vân Long dành nhiều trang viết về tác giả văn xuôi hàng đầu Việt Nam với những tác phẩm nổi tiếng “Gặp gỡ cuối năm”, “Một cõi nhân gian bé tí”, “Mùa lạc” nhiều cảm xúc: “Nguyễn Khải là người bạn văn vong niên, tôi được sống cùng trong một mái nhà, năm chúng tôi mươi mười lăm tuổi! Gọi là bạn văn hình như chưa đúng lắm! Bạn văn thường là do đọc của nhau rồi mới tìm đến nhau, tìm đến rồi thì câu chuyện chủ yếu là tác phẩm này, tác phẩm nọ. Bạn đang viết trường ca ư? Còn tôi, mới xong phần I tiểu thuyết… Khi chúng tôi gần nhau đã ai nghĩ gì đến viết lách. Anh Nguyễn Khải hơn tôi 4 tuổi, mà vẫn “trẻ con” lắm! Mười bốn, mười lăm tuổi mà chỉ lớn xác, vẫn thích chơi trận giả với đám trẻ lên mười chúng tôi”
Nguyễn Khải thuở chưa thành nhà văn
Vân Long
Đó là những năm 1943,44,45 và nửa đầu 1946 ở Hà nội. Gia đình tôi và gia đình anh Nguyễn Khải ở cùng một số nhà 4b, phố De Miribel, sau đổi là Trần Nhân Tôn, con phố có một đầu đường nhìn sang Chợ Hôm bên kia ngã tư Phố Huế - Trần Nhân Tôn. Chúng tôi sống gần nhau khoảng 4 năm, vậy là những năm ấy tôi là chú bé 9 đến 12 tuổi, anh Khải từ 13 đến 15 tuổi. Hai gia đình đều ở dạng neo đơn. Gia đình tôi chỉ có bà ngoại, bà nuôi hai chị em tôi, khi mẹ tôi tái giá sau gần chục năm ly hôn với ba tôi. Gia đình anh Khải cũng chỉ có ba mẹ con, ngoài bà mẹ, anh có một cậu em trai tên là Toàn, kém tôi chừng một hai tuổi.
Tôi cũng không còn nhớ gia đình nào đến ở trước, chỉ biết đó là một dẫy nhà hai tầng giống nhau, xây để cho thuê, mỗi gia đình thuê một phòng khoảng 24 mét vuông. Bốn gia đình (hai ở trên gác, hai ở dưới nhà) chung nhau một nhà vệ sinh, một cái sân chung. Gia đình anh Khải ở căn gác ngoài, đúng trên đầu căn phòng mặt tiền, nhà tôi thuê. Vì có mặt tiền, bà ngoại tôi tận dụng mở cửa hàng tạp hoá, để có tiền thêm cặp nuôi hai cháu ăn học. Tôi còn nhớ: bên phải bầy tủ kính tạp hoá, những xà phòng, khăn mặt…linh tinh, nhớ nhất là lọ đường phèn (trong đựng những tảng đường trong suốt màu vàng ngà mà tôi hay lục lọi, tìm những viên nhỏ vừa mồm, ngậm như ngậm kẹo). Bên trái bầy theo bậc thang từ thấp lên cao là những thúng gạo, đỗ xanh, đỗ đen, lạc, vừng…mà tôi sợ nhất lúc phải trông hàng một mình, thấy đàn dê của lão Tây đen chăn dê ngoài bãi cỏ bờ hồ Halais (Thiền Quang bây giờ) đi qua. Chúng như một bầy ăn cướp xông vào táp đầy mồm vừng với lạc, chẳng sợ gì cây gậy trong tay tôi với cây roi của lão Tây đen.
Còn gia đình anh Khải, cả xóm cứ gọi là nhà bà Huyện, cả ba mẹ con cứ trắng xanh ra, và đều tạng người gầy gầy, cao cao. Gọi là bà Huyện, vì bà là vợ một ông quan Huyện. Tất nhiên là có trợ cấp của chồng, nên không phải buôn bán gì, nhưng vẻ mặt của bà lúc nào cũng u buồn, tôi cảm thấy bà khổ hơn những người dân nghèo trong xóm, họ còn có việc để làm, có sự vất vả để than thở, trò chuyện. Ông Huyện tất nhiên phải trọng nhậm ở một huyện ngoại thành hoặc tỉnh khác, nhưng hàng xóm bàn tán, nghe đâu ông Huyện lấy bà này làm lẽ, không thể sống công khai những năm ấy. Chuyện người lớn, chúng tôi chẳng quan tâm. Chưa bao giờ tôi thấy mặt ông. Thì cũng như ba tôi, hàng xóm của tôi có bao giờ thấy mặt ba tôi, dù ông là chủ một hiệu may có tiếng ở Tràng Tiền, chỉ cần đi bộ mươi phút…Dường như những căn phòng nhỏ bé cho thuê này chỉ để những hộ neo đơn, xộc xệch, “không đồng bộ” của dân Hà nội trú ngụ, ấy là tôi nghĩ như vậy hồi bé! (tôi rất thấm thía khi sau này đọc những dòng hồi ức của Nguyễn Khải: “những năm còn nhỏ tôi sống rất buồn. Những người thân nhất của tôi đều có số phận rất buồn. Họ gánh vác mọi nỗi buồn một cách nhẫn nhục, cam chịu và đã xem đó là định mệnh…”)
Anh Khải và tôi hợp nhau ở tính mê đọc truyện, và “thượng vàng hạ cám” loại sách gì cũng đọc. Từ loại sách riêng cho trẻ em như Sách Hồng, Truyền Bá, Hoa Mai, Hoa Xuân…từ tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đến loại trinh thám (Lệ Hằng với chí phục thù, Người nhạn trắng…)Đặc biệt được chúng tôi mê thích là loại sách Kiếm Hiệp, những Giao Trì hiệp nữ, Bồng Lai hiệp khách…Chúng tôi ngốn sách rất nhanh: những cuốn khoảng hai trăm trang, thuê trên đường đi học. Thế rồi đọc lén, đọc vụng cả trong giờ thày cô giảng bài, chỉ đến 2,3 giờ chiều là ngốn hết. Vậy là từ 3 giờ chiều đến tối khuya chả còn gì để đọc cả mà vẫn “mất oan” tiền thuê cả ngày. Chúng tôi liền có sáng kiến trao đổi sách cho nhau cùng ngày hôm ấy. Thế là một lần tiền, được đọc hai cuốn sách trong ngày. Đang đọc đến chỗ hay mà bị gọi ra ăn cơm thì...không gì khổ bằng, lúc ấy nếu được bà hoặc mẹ đồng ý, có thể nhịn ăn, đọc xong cái chương hấp dẫn ấy mới ăn. Thế mà chúng tôi vẫn có lúc chơi với trẻ con hàng phố. Thường là anh Khải nghĩ ra trò, anh vừa hơn chúng tôi vài ba tuổi, vừa cao lênh khênh: “ Giả vờ tao là tiên ông đang tu luyện trên núi, chúng mày là lâu la xông lên chiếm núi để lập sơn trại.” Nhưng chơi đánh trận bao giờ anh cũng thua, mặc dầu đã chia thêm cho anh vài đứa giả làm tiểu đống hầu hạ. Anh thua vì anh nhát gan hơn chúng tôi. Cứ cho hai đứa xông lên cầu thang, mỗi đứa ôm gọn một bên chân cao nghều của anh, là anh sợ ngã kêu oai oái…Lúc bí quá, anh giơ cái chổi phất trần lên: “Đây là chiếc phất trần có phép của tiên ông, khi phất lên chúng mày phải ngã ra bất tỉnh, nghe không!". Sau này, khi hai đứa thành nhà văn, mỗi khi thấy anh “hạ sơn”…, đảm trách việc Hội nhà văn, gặp trắc trở là rút lui rất nhẹn, có thương tích gì anh cũng hoá giải thành chuyện nhẹ nhàng, để lại ẩn mình sau trang viết, để một hai năm đã lại trình làng một cuốn tiểu thuyết mới, tôi cứ cười thầm nhớ đến thời niên thiếu của anh!
Dãy nhà cho thuê ấy, giống nhau như đúc một khuôn. Tôi biết là cùng một chủ cho thuê, vì hàng tháng cùng một người đến đòi tiền thuê nhà. Nhưng người này cũng là người làm công, chuyên đi thu tiền, nên tôi không biết chủ là ai. Mãi đến năm 1995, đúng nửa thế kỷ sau, nhờ có bộ ba cuốn “Hà nội nửa đầu thế kỷ XX” của cụ Nguyễn Văn Uẩn ra mắt, tôi đọc, mới biết dãy nhà từ số 2 đến số 8 Trần Nhân Tôn, chủ cho thuê là ông Lê Cường, chủ nhà in và nhà xuất bản, kiêm chủ nhà thuốc Hồng Khê.
Nhân đọc được chi tiết này, tôi đã viết một bài báo vui, có câu “Hoá ra ngay từ bé, anh Nguyễn Khải và tôi, các nhà văn chưa bước vào nghiệp văn, đã phải phụ thuộc vào ông chủ nhà xuất bản! Với riêng tôi thì còn một đận ông Nguyễn Kiên giám đốc NXB Hội nhà văn ký chia cho nửa căn hộ ở Thanh Xuân Nam. Khi bán hai nửa căn hộ để xây nhà mới thì không được tuổi, lại phải nhờ ông Lữ Huy Nguyên giám đốc NXB Văn Học được tuổi, đứng tên chủ xây từ khi làm lễ cuốc nhát đầu tiên đào móng nhà, rồi làm lễ đổ trần tầng một, tầng hai…đến khi xây xong nhà, làm “thủ tục tượng trưng ” bán nhà cho tôi. Thủ tục thì tượng trưng, nhưng trong phong bì, tiền mua nhà là tiền thật. Tôi cũng muốn nhân dịp, gọi là một chút tiền nho nhỏ thù lao công ông đi lại mấy lần mưa rét, có hôm lỡ cả một cuộc họp ở Bộ để đúng hẹn với tôi. Tôi rất phục phong thái của Lữ Huy Nguyên hôm đó. Ông điềm nhiên nhận phong bì tiền, cảm ơn tôi, rồi nói: “Thế là việc xây nhà, mua bán nhà đã xong, chúc ông có nhà mới! Bây giờ tôi biết ông có hai cháu, có cháu còn đang đi học nơi xa. Tôi tặng lại số tiền này để hai cháu lấy may, làm vốn!” Ông vẫn nhận tiền đàng hoàng, nhận để mà không nhận, với tinh thần hào sảng, vô tư giúp bạn.
Giai đoạn trước Cách mạng, anh Khải và tôi còn chung kỷ niệm những ngày tránh bom Đồng minh truy kích quân đội Nhật. Hai gia đình chúng tôi chạy về nhờ sư cụ chùa Tó mạn Hà Đông. Lần đầu được sống ở nông thôn, trong ngôi chùa có khu vườn rất rộng, thật là thiên đường với lũ trẻ thành phố chúng tôi, với chỗ trốn tìm lý tưởng, ao rộng để câu cá, làm những cây nỏ xinh xinh bắn tên cắm vào thân cây chuối phầm phập, theo người lớn đi chợ Tó dọc theo bờ sông Nhuệ, bị ngỗng đuổi…Nhưng có một người làm anh Khải nhớ nhất, đó là một chú tiểu nữ, tên Th., chạc 11,12 tuổi.
Chú Th. là một cô bé rất xinh, nói chuyện hóm hỉnh, khi cười thì phô cả lúm đồng tiền lẫn chiếc răng khểnh, các cô bạn học của chúng tôi ở Hà Nội có lẽ không ai được như vậy! Cô luôn dúi cho chúng tôi, những cậu bé thành phố, khi thì mấy trái ổi đào, khi thì trái khế ngọt. Anh Khải rất thích hỏi chuyện “cô bé”, tôi biết một thứ tình cảm trong sáng nào đó, có thể như là dạng tình yêu buổi sơ khai đã xuất hiện ở anh Khải. Thì mới hôm nào, chúng tôi đọc chung nhau cuốn tiểu thuyết có mối tình của chàng lãng tử với một ni cô đó thôi! Những chi tiết về “chú tiểu” Th., chính nhờ anh Khải nhắc lại khi chúng tôi gặp lại nhau ở Hội nghị nhà văn trẻ Thái Hà Ấp (1959) mà tôi nhớ lại như trên!
Tôi học ở vùng kháng chiến được vài năm, rồi phải theo gia đình về Hà nội (1950, lúc này bà ngoại đã yếu, phải “trao trả” tôi cho ba tôi). Sống cô đơn giữa một gia đình lớn, tôi sợ ông bố như…cọp, các anh chị em hàng chục người là con hai bà khác của ba tôi. Tôi được “biệt đãi”, đi học ban ngày, buổi tối phải làm thợ gói chè (hãng chè Phú Xuân của ba tôi) đến 12 giờ đêm, sau thì phải nghỉ học hẳn để giúp cụ trông nom cửa hiệu may của gia đình ở Tràng Tiền…Niềm an ủi tinh thần chỉ còn là tình bạn với nhóm bạn văn thơ khi còn đi học (nhóm Hoa Phượng), sau chỉ còn tôi và nhà văn Băng Sơn ở nhóm này theo đuổi nghề viết (vì không biết làm gì khác). Tôi võ vẽ biết chút nghề cắt may âu phục, nhưng lại rất dị ứng với nghề này. Sau giải phóng thủ đô ít lâu, tôi mang đàn vào Đoàn nhạc giao hưởng thi thử, lại được chấp nhận, thế là được tiếng: xuất thân là nhạc sĩ violon dàn nhạc Giao hưởng…Thời gian này, chúng tôi đang coi Hoàng Công Khanh như một thần tượng, vì ông đang dàn tập, sau cho công diễn kịch thơ “Bến nước Ngũ Bồ”. Rồi vài tác phẩm như “Bạn đường”, “Trại Tân bồi” của ông còn đậm hơi hướng văn học vùng kháng chiến. Giao lưu với nhóm sáng tác học sinh khác thì quen được nhóm của Đông Mai (chị ruột Xuân Quỳnh, lúc đó Xuân Quỳnh chỉ là cô bé đang bận nhẩy dây ngoài sân khi chị tiếp bạn ).
Trong bốn năm vừa đi học, vừa nai lưng làm đủ mọi việc phụ giúp ba tôi, tôi in thơ trên hầu khắp các báo của Hà nội tạm chiếm, đã quen tên, đã “có nghề”, chỉ có điều không dám chường mặt ra với các nhà biên tập, sợ họ coi là “trẻ con”, không in thơ cho nữa. Không biết báo biếu, nhuận bút là gì đã đành, mà còn bị “bóc lột” (cướp đoạt bản quyền) mà không dám kiện ai. Tôi còn nhớ cả năm cộng tác với tờ Thân Dân, trang văn nghệ thứ sáu do nhà văn Thượng Sĩ phụ trách. Gần tết, viết được cái kịch thơ (để đọc) gửi cho báo này. Số Tết báo đó không thấy in, đã buồn. Nhưng lại gặp chính tác phẩm mình in ở Giai phẩm Xuân Đẹp, quảng cáo tên mình kèm với tên những Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương…Thời đó, Tết đến, các văn nghệ sĩ có thể xuất bản riêng một đặc san mừng Xuân, không phụ thuộc vào tờ báo nào, hẳn là ông Th.S. đã bán bản thảo cho nhóm đó.
Kể dông dài để “khoe”, mình cũng là một cây bút trẻ được chú ý, sau Giải phóng thủ đô là hòa nhập được ngay với các trang báo Văn Học (tiền thân báo Văn Nghệ), Độc Lập, Cứu Quốc…ở kháng chiến về. Năm 1957, khi tôi mới 23 tuổi, tôi được hai ông bạn vong niên Giang Quân và Lê Tám, cùng hoạt động trong Hội Liên hiệp Thanh Niên Hà nội mời in chung một tập thơ tình “Đường vào tim” ( Lê Tám lúc này là phó bí thư Thành đòan Thanh Niên Lao Động Hà nội).
Gặp lại Nguyễn Khải ở vuông sân cạnh hội trường Thái Hà Ấp với bộ quần áo bộ đội, đeo lon hình như thượng sĩ thì phải, sau khi bặt tin nhau từ độ tản cư khỏi Hà nội. Anh vẫn trắng trẻo, cao lêu đêu như không có những ngày kháng chiến. Chúng tôi gần như ôm lấy nhau mà sống lại cả một thời thơ ấu. Sau đó mới nghĩ đến “Ông này viết gì nhỉ ? Sao mình chưa nghe tên? Hay ông ký tên khác? Thú thật, tôi có chút tự thị: Chả gì mình cũng có đến chục năm in thơ trên báo,chỉ có điều dăm năm in báo trong Hà nội tạm chiếm chỉ là một dấu trừ, không tính, dẫu đó chỉ là những bài thơ về thiên nhiên, tình yêu có chút lãng mạn, có chút nuối tiếc những ngày học ở vùng kháng chiến…Tôi vẫn giữ bút danh cũ, không việc gì phải đổi tên như một số cây bút từng viết những bài đáng xấu hổ trong vùng địch. Còn anh Khải, chắc cũng như một số bạn tôi mới quen trong tổ của tôi ở Hội nghị này, có người chỉ viết tin, bài báo ở một số đơn vị quân đội. Thậm chí, có người (như chị Hoàng thị Rủ) công nhân nhà máy dệt Nam Định còn…chưa biết chữ! Nói không ai tin, nhưng chắc những bạn đã từng dự Hội nghị người viết trẻ lần đầu (1959, Thái Hà Ấp) còn nhớ hiện tượng ấy: Chị kể hồn nhiên: Tôi chỉ làm ca dao, hò vè ứng khẩu là nhanh, học bình dân đến nửa năm mà chưa đọc thông viết thạo. Giấy của Liên Hiệp Công đoàn thành phố gửi về: Phải cử một người biết sáng tác đi dự Họp ở Hà nội, giai cấp công nhân của một nhà máy dệt nổi tiếng không thể không có người biết sáng tác!” Thì ra ngoài những người trẻ có chút tên tuổi trên báo chí, được mời đích danh, còn lại thì…được cử đi như đại diện cho phong trào sáng tác quần chúng, “đi học để về truyền đạt lại”. Anh Khải chắc cũng là người được đơn vị cử đi như vậy (!)
Chưa kể đến một việc gây ấn tượng trước khi tôi gặp lại anh Khải: Đó là cuộc gặp anh Toàn! Buổi giao thời Hà nội vừa được giải phóng, tôi mở một hiệu mua bán sách cũ, trao đổi sách y học. Đang đứng bán hàng, một hôm có một nhà sư trẻ đi vào, tôi chưa kịp hỏi xem nhà sư cần sách gì thì ông đã reo lên “ Anh Thông! “(tên gọi thuở nhỏ của tôi) tôi qua phố này luôn mà hôm nay mới thấy anh! Chắc anh mới mở hiệu sách ở đây?”. Hoá ra đó là Toàn, em ruột anh Khải. Hàn huyên mới biết: Khi anh Khải vào bộ đội, làm y tá cho Tỉnh đội Hưng Yên, bà mẹ yếu, Toàn phải đưa mẹ trở về Hà nội chăm sóc. Để tránh bị bắt đi lính cho Pháp, Toàn phải nương thân ở một ngôi chùa. Sau anh Khải ở kháng chiến về, Toàn mới bỏ áo “cà sa” làm sinh viên Đại học thuỷ lợi.
Căn cứ vào thể trạng yếu ớt, hiền lành, cao nhã của hai anh em Khải, Toàn hồi bé, nếu không có cuộc kháng chiến đảo lộn mọi cách sống, nếu tôi gặp lại anh Khải với dáng dấp nhà sư như Toàn, chắc cũng không có gì phải ngạc nhiên.
Với cách nghĩ có chút tự thị căn cứ vào những lý do như trên, nên tôi kinh ngạc xiết bao khi anh Khải trả lời tôi: “Mình vừa in Xung đột tập I, đang chỉnh lại tập II…” Tôi gần như lùi lại một bước để nhìn kỹ anh, để biết anh Khải ngày xưa chính là nhà văn Nguyễn Khải vừa cho in Xung đột tập I, mà tôi vừa đọc vừa khâm phục, đinh ninh ngoài tài năng, tác giả phải là người theo đạo gốc mới hiểu người công giáo, xứ công giáo như vậy! Không thể ngờ được đó là anh Nguyễn Khải “tiên ông”, “hồn bướm mơ tiên” ngày nào cùng tôi ngập đầu vào mớ sách táp nham. Hoá ra tôi chỉ được chứng kiến giai đoạn gieo mầm của nhà văn, hoàn cảnh kháng chiến đã chọn lựa giúp anh những hạt mầm tốt, (thí dụ hầu hết tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn anh đã đọc ngay từ dạo 13,14 tuổi) cho phát triển sang một hướng khác! Đúng như anh từng viết (mà không hề tỏ ra khuôn sáo như một số trường hợp ôn nghèo kể khổ khác)” nếu không có Cách mạng tháng Tám thì đời mình sẽ ra sao nhỉ? Chắc chắn tôi vẫn là người lao động lương thiện, nhưng tầm thường, xoàng xĩnh hơn bây giờ nhiều. Bởi vì tôi tự biết có những nhược điểm rất lớn, lại thêm chỗ đứng ban đầu thua kém, khó có thể tự đẩy lên cao hơn cái biển người thờ ơ của một xã hội sôi động…”
Rồi sau, lại chính anh gợi ý cho tôi viết đơn xin vào Hội nhà văn, khi tôi thấy việc đó còn xa vời lắm, tôi vào Hội với sự giới thiệu của anh (năm 1980). Sau này giữa những kỳ họp Hội nhà văn, anh rủ tôi đi thăm lại căn nhà cũ phố Trần Nhân Tôn và nhất là thăm lại chùa Tó, tìm lại tung tích chú tiểu xinh đẹp ngày nào. Khi chúng tôi lơ ngơ đến cửa ngôi nhà số 4b Trần Nhân Tôn,chưa kịp nghĩ ra lý do hợp lý để “tiềm nhập”, tìm lại những góc kỷ niệm xưa, thì đã có tiếng reo từ trong căn phòng mặt tiền của tôi: “A! Anh Nguyễn Khải! Nhà văn tìm nhà ai mà quá bộ đến đây thế?” Anh Khải đáp lại sự vồn vã của người đàn ông với cái bắt tay nồng nhiệt, nhưng hình như chưa nhận ra mình đã gặp người này trong dịp nào, thì chúng tôi đã được kéo vào trong nhà, chủ nhân pha trà mời. Trong khi hai người bận nhớ lại lần gặp nhau, thì tôi mặc sức săm soi từng góc “nhà tôi”, hiện lên từng kỷ niệm thân thương. Ở khung cửa vào sân trong, như còn thấy lờ mờ vết dao vạch đo chiều cao của hai chị em tôi từng thời gian, mong lớn nhanh để thành “người lớn”. Nhưng rõ nhất là tên cửa hiệu tạp hoá mang tên hai chị em, như vẫn còn lờ mờ sau mấy lần vôi quét không kỹ, hay đó là óc tưởng tượng của tôi đã mường tượng ra như vậy!
Khi tôi tuởng phải vòng vo một cớ gì để có thể lên gác thăm lại căn buồng cũ của mẹ con anh Khải cho người ta khỏi cười hai anh chàng dở hơi, thì anh Khải đã nói thẳng ra lý do thật của hai chúng tôi. Vẫn cái tính thẳng thắn, bộc trực từ hồi bé! Chỉ tiếc rằng người chủ nhà trên gác sống độc thân, cứ đi đâu suốt ngày, tối khuya mới về!
Lần thăm lại chùa Tó thì anh Khải “thu hoạch” lại nhiều hơn tôi, bằng cách hỏi han chân thành, quan tâm một cách thiện tâm tới người được tìm hiểu, anh tỏ ra từng trải hơn tôi rất nhiều, không chỉ vì anh hơn tôi ba bốn tuổi! Thì ra “chú” Th. vẫn là một sư nữ khi trưởng thành. Vùng này quá gần Hà Nội, là vùng tạm chiếm nhiều năm, nên bộ áo nâu sồng chắc có phần an toàn hơn với “chú”, kể cả muốn sống yên phận hay hoạt động gì đó cho cách mạng. Đến thì con gái, hẳn là “chú” đẹp lắm! Đó cũng là lý do chúng tôi quan tâm đến số phận của người con gái này, nhất là anh Khải, người hẳn là có những tình cảm đặc biệt hơn tôi, khi tôi vẫn còn trẻ con như cô bé!.. Được biết, chỉ khi địa phương thành lập hợp tác xã, Th. được cử làm kế toán cho Hợp tác xã ít lâu, cô mới “hoàn tục”, lấy một người đàn ông goá vợ, hai vợ chồng đưa nhau lên miền núi làm ăn, trong một đợt vận động khai hoang, hình như cũng để tránh điều tiếng thị phi nào đấy!…Anh Khải ghi chép khá kỹ, liệu sau này anh có tìm hiểu được thêm gì về tung tích “người đẹp” buổi thiếu thời của chúng tôi không? Số phận cô, hẳn không chỉ đơn giản có thế! Không phải chúng tôi hay tưởng tượng, tiểu thuyết hoá mọi sự, mà chuyện đời, nhiều khi gây bất ngờ còn hơn những điều ta có thể tưởng tượng ra!
Khi anh Khải là phó Tổng thư ký Hội nhà văn khoá 3, đại biểu Quốc hội khoá VII, thấy tôi còn lận đận xa gia đình đến 15 năm, đã ở “cửa ngõ thủ đô” rồi mà chưa được về làm việc ở Hà nội, anh đã khuyên tôi nên về làm ở Ban sáng tác Hội, do anh đang chấn chỉnh lại.Tất nhiên tôi ký cả hai tay, nhưng Hà Đông nổi tiếng giữ người, làm sao họ nhả tôi ra? Nhưng tôi tin vào uy tín nhà văn và chức nghị sĩ Quốc hội của anh Khải, nên cứ đề đạt với Ty văn hoá Hà Sơn Bình (do Hà Đông- Sơn Tây- Hòa Bình hợp lại) nguyện vọng chính đáng của mình. Tất nhiên họ không đồng ý, lấy cớ cần người để thành lập Hội Văn Nghệ Tỉnh. Thế là anh Khải tự thân vào Hà Đông đến 3 lần, có lần chỉ đi chiếc xe đạp, yên xe lên cao đến hết cỡ, (đó là lần kết hợp vào thăm lại chùa Tó) gặp thủ trưởng trực tiếp của tôi là ông Quách Vinh, phó ty Văn hoá, thuyết phục ông cho tôi chuyển ra Hà nội. Ông Quách Vinh rất mừng đón tiếp nhà văn ông vốn kính phục, lại vào thăm ông với cách bình dân như vậy. Nhưng đến lần thứ ba, Nguyễn Khải đặt vấn đề với Quách Vinh, thì ông này buộc phải nói “ Tôi rất quý mến và kính trọng nhà văn, nhưng đụng đến nguyên tắc xử dụng cán bộ của Tỉnh là tôi không dám vi phạm. Lần sau anh vào chơi là quý, nhưng xin đừng đụng đến vấn đề này nữa!”
Còn với tôi, sau đó ông nửa thật, nửa đùa “ Ông Vân Long ạ! Ông có bước qua …xác tôi, ông mới về được Hà nội!” (Chỉ thị của Tỉnh đại ý: Vì Hà Đông là cửa ngõ Thủ đô, nên những người có năng lực đều muốn tìm cách chuyển công tác ra Hà Nội. Các cơ quan tỉnh phải giữ bằng được “chất xám” cho Tỉnh. Quách Vinh là người rất sợ trách nhiệm trước cấp trên). Thế mà, chỉ sau đó vài tháng, vài dòng viết tay của Bí thư Tỉnh ủy gửi cho ông về việc chuyển công tác cho tôi, ông đã thay đổi ngay thái độ, ký quyết định cho tôi về Hà nội một cách vui vẻ, sởi lởi, ban ơn…(bởi tôi có ông anh rể thứ trưởng Bộ Ngọai Giao lại là “xếp” của con ông Bí thư Tỉnh ủy (!) ). Nhưng hỡi ơi! lúc này thì người đỡ đầu của tôi đã thôi…chấp chính, đã lẩn vào trang viết của ông mà coi mọi chuyện chính trường của Văn Nghệ như áng phù vân, Hội nhà văn đã có cơ chế khác! May thay! ông Ngô Quân Miện vẫn có ý chờ tôi về giúp ông làm trang Văn Nghệ báo Độc Lập, mở cửa đón tôi, để 8 năm sau tôi mới về được cơ quan cấp II của Hội là NXB Tác phẩm Mới…
Hẳn là trong đời, Nguyễn Khải cũng muốn làm một cái gì đó cho tổ chức Hội, giúp một ai đó, khi có cơ hội và hoàn cảnh, nhưng rủi thay, và cũng may thay! Anh chỉ biết viết văn, cách duy nhất và cao nhất anh hành thiện giúp đời!
Đọc thêm:
Đọc lại và thương nhớ Nguyễn Khải
Trở về trang chính
Dạy và học BlogtiengViet
CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC
12 tháng 9, 2011
Văn hay cốt ở giản dị, xúc động và ám ảnh

HỌC MỖI NGÀY. "Bố tôi nói, mấy năm trước con là học trò của bố, bây giờ để bố làm học sinh của con có được không? Tôi nói, thế thì bố già của con ơi, phải chuyên tâm mà học đấy, con không có thời gian cầm tay chỉ bố từng ly từng tí đâu. Bố tôi cười ha hả mà rằng, cái đó tất nhiên rồi, bố sẽ giành vị trí danh dự học sinh thông minh nhất lớp con, như năm xưa con gái bố đã cho bố cái vinh dự ấy vậy." Một câu chuyện cảm động với lời kết: "Tôi đặt ông vào nơi ấm áp nhất trong sâu thẳm trái tim mình." Bài thật tuyệt! Văn hay cốt ở giản dị, xúc động và ám ảnh"
HỌC TRÒ NGỐC NGHẾCH NHẤT CỦA TÔI
Truyện ngắn của An Ninh (Trung Quốc)
Đỗ Mai Quyên (dịch), nguồn: Tienphong theo baidu.com
TP - Sau khi tốt nghiệp tôi ở lại Bắc Kinh giảng dạy, bố tôi thấy quá cô đơn, bèn gọi điện cho tôi nhờ mua hộ ông máy vi tính, ông muốn chat webcam với tôi. Tôi cười ông, già hơn 50 tuổi đầu rồi, chẳng hiểu biết gì về vi tính cả, thế này thì không mời thầy giáo chuyên môn về dạy thì không xong.
Bố tôi nói, mấy năm trước con là học trò của bố, bây giờ để bố làm học sinh của con có được không? Tôi nói, thế thì bố già của con ơi, phải chuyên tâm mà học đấy, con không có thời gian cầm tay chỉ bố từng ly từng tí đâu. Bố tôi cười ha hả mà rằng, cái đó tất nhiên rồi, bố sẽ giành vị trí danh dự học sinh thông minh nhất lớp con, như năm xưa con gái bố đã cho bố cái vinh dự ấy vậy.
Từ đó cứ mỗi tối cuối tuần, tôi đều bị bố lôi kéo quyết liệt đến trước màn hình vi tính. Lúc đầu là gọi điện thoại đường dài về chỉ ông cách đăng nhập vào QQ, sau đó cuối cùng cũng đã chỉ ông cách sử dụng webcam.
Đến bước này thì bố bắt đầu hơi lười biếng, mỗi ngày tôi đều căng cổ họng ra mà dạy ông cách tìm kiếm tài liệu thế nào, gửi thông tin ra sao… tôi cảm thấy tất cả sức lực mình đã phí hoài cho ông dường như còn nhiều hơn cả đứa học sinh ngốc nhất lớp mình nữa; nhưng kiến thức về vi tính của bố tôi lại chỉ dừng lại ở trình độ mở webcam, cười ha ha vào micro nói chuyện với tôi mà thôi.
Bố già tôi hình như chẳng mảy may nhận biết gì về sự chậm chạp đầu óc của mình, khuôn mặt mập mạp của ông trong ống kính webcam trước sau vẫn cười ra chiều đắc ý lắm. Tôi nói bố già ơi, bố phải thực hành đi chứ, mỗi cuối tuần chỉ nghe con dạy, rồi sau đó cả tuần cũng chẳng rờ đến cái vi tính thì sao được? Bố tôi như thường lệ vẫn cười tươi như hoa trước webcam, nói bố già đây thật sự rất thông minh, cô nương chỉ cần nhẫn nại tí thôi, bảo đảm ông bố này sẽ tiến bộ thần tốc.
Tôi thấy là cứ mỗi mệnh lệnh đều phải nhắc lại cả n lần thì ông bố mù tịt của tôi mới bắt đầu “động thủ”, tự nhiên thấy hơi nản lòng, nghĩ rằng hoặc là giáo viên mình dạy không đúng cách, hoặc là bố thật sự ngốc nghếch, với những kiến thức tiên tiến thế này thì chẳng thể nào học nổi được.
Những cái “tiến bộ” của bố tôi chỉ đạt đến mức là gõ chữ và nói chuyện với tôi, thế là hết. Về sau mặc kệ tôi cố gắng thế nào, bố cũng chỉ dừng lại ở đó, chẳng tiến thêm được nửa bước nào. Bạn đồng nghiệp kế phòng tôi cứ mỗi khi nghe thấy tôi gào thét tới đứt hơi khản tiếng trong phòng là biết ngay tôi đang dạy bố lên mạng. Có một hôm cô ấy vô ý cười mà nói, đối với học trò đặc biệt chậm chạp thế, lạnh nhạt có khi tác dụng hơn là tận tâm chỉ bảo nữa, sao không thử xem! Tôi vui sướng tiếp thu ngay.
Bố tôi hơi không thích ứng kịp với biện pháp này, chưa qua được 1 tuần, ông kìm không nổi, nói cô nương ơi hay là cầm tay dạy cho bố đi, bố lớn tuổi thế này rồi sao bì được đám thanh niên các con. Sau đó thấy tôi thờ ơ không chút động lòng, cuối cùng ông nổi nóng, bắt đầu lãnh đạm với tôi.
Tôi gọi điện thoại về cho mẹ, nhờ mẹ chuyển lời với bố, học trò ngốc như bố lần đầu con mới gặp, đã 3 tháng rồi, gõ chữ tốc độ còn chậm như rùa bò, cứ thấy thế thôi, con há chẳng phải cả đời cũng dạy không nổi hay sao? Mẹ tôi lắng nghe cơn thịnh nộ của tôi xong, thở dài rồi nhẹ giọng bảo:
“An An, thật ra ông bố con chẳng phải ngốc thế đâu, ông chỉ là muốn nghe thấy giọng nói của con nhiều một chút thôi, nếu mà cái gì cũng biết được thì bố con còn nhận con làm cô giáo làm gì? Cứ mỗi lần thấy con trách móc kêu gào qua webcam như thế, ông cũng chẳng chấp, còn cười mà nghe con giảng bài, như cây gặp gió xuân, tốn những mấy ngàn đồng chỉ để làm cái việc thấy con mà thôi, chứ bố con đã lớn tuổi rồi, học lên mạng còn làm được gì nữa, có thể ngồi đối diện nói chuyện với con thế, với bố con mà nói, đã là tinh thông vi tính lắm rồi”.
Thì ra, học trò ngốc nghếch nhất ở đây là tôi, ngốc tới nỗi mặt đối mặt với bố, nhìn thấy vẻ dịu dàng ân cần của ông trong khi mình vẫn liến thoắng nói cười không ngớt, thế mà vẫn không biết. Cái mà trong lòng bố muốn, chỉ là muốn thấy đứa con cách xa ông ngàn dặm có khỏe hay không, có phải là vẫn giống như bố nhớ đến hay không. Tôi đặt ông vào nơi ấm áp nhất trong sâu thẳm trái tim mình.
CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC
6 tháng 9, 2011
Tâm sự Nguyễn Du qua Đối tửu

HỌC MỖI NGÀY. Đối tửu là tuyệt phẩm thơ của cụ Nguyễn Du do Hoa Huyền giới thiệu bản chữ Hán, dịch nghĩa, dịch thơ, thư pháp và những bài họa vần. Tâm sự Nguyễn Du qua Đối tửu là tâm sự của bậc anh hùng, Người đã đám đương đầu với Nguyễn Huệ, hiễu rất rõ Gia Long, Minh Mệnh là những vị vua tài trí và gian hùng, biết trọng dụng nhân tài nhưng kiềm chế và đa nghi. Nguyễn Du đã từng là chánh sứ đứng đầu về ngoại giao với triều Thanh. Người cũng là hàn lâm đại học sĩ đứng đầu về giáo dục, là quan cai bạ đầu tỉnh trọng yếu sát cạnh cố đô. Nguyễn Du hiếu thấu kinh Kim Cương, sâu sắc Kinh Dịch, Phong Thủy và Nhân tướng học, uyên thâm mọi mặt về lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội và ngôn ngữ, nhưng cẩn trọng và khiêm nhường hiếm thấy. Người không chỉ là đại văn hào với Truyện Kiều và những bài thơ văn tiếng Việt mà còn viết tuyệt phẩm Bắc Hành tạp lục với các bài thơ văn chữ Hán sánh với bất cứ tác phẩm ưu tú nào của thời thịnh Đường, đỉnh cao chói lọi của thơ văn Trung Hoa. Người đã mắng Minh Thành tổ, tế Khuất Nguyên, họa thơ Lý Bạch, Thôi Hiệu, dừng chân thăm đền Mạnh Tử, xuống xe nhớ những hiền tài... Tìm hiểu vẻ Người, tôi có viết: Nguyễn Du và những câu thơ tài hoa; Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cỗ Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ; Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ. Trước đối tửu, thầm thương bậc anh hùng. "Ba trăm năm nữa chốc mòng. Biết ai thiên hạ khóc cùng Tố Như". Như "Cảm hoài" của Đặng Dung, "Thợ bán than" của Trần Khánh Dư," "Một mai, một cuốc, một cần câu" của Nguyễn Bỉnh Khiêm, "Đập đá ở Côn Lôn" của Phan Chu Trinh,"Đối tửu" của Nguyễn Du là thơ hay danh sĩ còn mãi với thời gian .
Đối tửu (Nguyễn Du - 阮攸, Việt Nam)
對酒
趺坐閒窗醉眼開,
落花無數下蒼苔。
生前不盡樽中酒,
死後誰澆墓上杯。
春色霑遷黄鳥去,
年光暗逐白頭來。
百期但得終朝醉,
世事浮雲眞可哀。
Đối tửu
Phu toạ nhàn song tuý nhãn khai,
Lạc hoa vô số há thương đài.
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,
Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi ?
Xuân sắc niệm thiên hoàng điểu khứ,
Niên quang ám trục bạch đầu lai.
Bách kỳ đãn đắc chung triêu tuý,
Thế sự phù vân chân khả ai.
Dịch nghĩa
Ngồi xếp bằng tròn trước cửa sổ, rượu vào hơi say mắt lim dim,
Vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh.
Lúc sống không uống cạn chén rượu,
Chết rồi, ai rưới trên mồ cho ?
Sắc xuân thay đổi dần, chim hoàng oanh bay đi,
Năm tháng ngầm thôi thúc đầu bạc.
Cuộc đời trăm năm, chỉ mong say suốt ngày.
Thế sự như đám mây nổi, thật đáng buồn.
Trước ly rượu
Bản dịch của: Lão Nông (Hoahuyen)
Bên cửa xếp bằng ngất ngưởng say
Cánh hoa rơi phủ thảm rêu đầy
Sống chưa vơi nửa lưng ly rượu
Chết hỏi rằng ai tưới mộ đây ?
Xuân đã xa dần oanh bỏ tổ
Tháng năm bàng bạc tóc màu mây
Trăm năm chỉ ước say mềm mãi
Thế sự bèo mây... ngẫm đắng cay
Mời các bạn tham gia dịch hoặc họa cùng Cụ Nguyễn Du

Bài họa 1:
MONG ƯỚC TRI ÂM (684)
Hoahuyen
Kẻ tung người hứng mãi chưa say
Góc quán rêu phong... mốc phủ đầy
Đối tửu, rượu buồn ly lẳng đó
Ngó hoa, bông héo cuống quăng đây
Già xuân khật khưỡng run chân giữa
Luống tuổi lềnh bềnh trắng tóc mây
Mong ước tri âm... tri kỷ mãi
Chia bùi, sẻ ngọt nếm chua cay
Bài họa 2
VẪN SAY VỚI MEN CAY
Bác sĩ Tản (Học trò trường thuốc)
Bác ơi, chẳng phải ít người say
Bởi tại vần thơ chửa ráp đầy
Ráng chỉnh chu thêm nên dấu xó
Khi hoàn tất đủ ắt khoe đây
Trẻ thời khép nép e ra gió
Già tất khoan thai lướt vén mây
Tri kỷ xá chi đâu tuổi tác
Nâng ly ngâm phú thả men cay
Bài họa 3
ĐẮNG CAY
Bác sĩ Tản (Học trò trường thuốc)
Rượu nồng chưa uống đã ngời say
Trộm mắt nhìn nhau lệ thấm đầy
Dạ trách lòng than oan trái quá
Môi cười miệng đắng trớ trêu đây
Duyên tình xa thoảng trôi hương gió
Ân nghĩa vơi dần khuất bóng mây
Đau thấu ruột gan thân phận lẻ
Ghen tuông nào chẳng trút hờn cay
Bài họa 4
CHƯA SAY
Hồ Văn Thiện
Chai đà dốc cạn vẫn chưa say
Đầu ngõ hoa xoan đã rắc đầy
Cuộc thế bao người chìm đến đáy
Nhân tình mấy kẻ đón đưa đây
Sống chưa từng biết niềm hoan lạc
Chết hỏi chi màng cảnh móc mây
Có chút lương tâm còn bán rẻ
Ham gì mướp đắng với gừng cay
Bài họa 5
GỪNG GIÀ ĐỤNG CÀNG CAY
Hà Đình Chung
Men tình nếm thử đã no say
Tứ khoái trời cho khợp rõ đầy
Của lạ cõi trần chơi nếm thử
Vật ngon thiên hạ chén mùi đây
Bóng chiều đội tú chân khua gió
Tuổi hạc ngáy đèo mũi thổi mây
Phong độ " ngũ chi" còn dũng mãnh
Gừng già muối mặn đụng càng cay
Bài họa 6
KHÓC NGƯỜI XƯA
Lương Thế Phiệt
Ly sầu tưới mộ khóc người say
Nghe lá hoang rơi lớp lớp đầy
Một chén men nồng vừa rót xuống
Ngàn câu thơ cũ đã về đây
Cung đàn xót phận rơi hàng lệ
Nhịp phách ru hồn níu bóng mây
Thế thái nhân tình xưa đã vậy
Mà nay hậu thế ngẫm còn cay.
Bài họa 7
ÂN TÌNH (685)
Chửa biết mặt nhau vẫn cứ say
Ân tình sau trước đã đong đầy
Hoa vừa mới gọi: anh đâu nhỉ ?
Phiệt đáp ngay luôn: có lão đây
Lãng mạn tâm hồn mê "sướng" họa
Lâng lâng thể xác khoái "vần" mây
Khả năng thi phú ai bằng bác ?
Rõ hạt tiêu già nhấm quá cay
xem thêm
Cảm hoài của Đặng Dung
Thơ hay danh sĩ sống mãi với thời gian
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC, CÂY LƯƠNG THỰC
26 tháng 7, 2011
Hà Tiên thập vịnh Mạc Thiên Tích

HỌC MỖI NGÀY. Hà Tiên thập vịnh là mười bài thơ vịnh thắng cảnh Hà Tiên của Mạc Thiên Tích do Đông Hồ dịch. GSTS. Nguyễn Văn Luật gửi chuyển tiếp từ Tin Chu (chtinrgkg@gmail.com). Chúng tôi giới thiệu tác phẩm Song ngữ Việt Anh này và mong muốn nhận được các hiệu định, dịch, họa, bình đối với thi phẩm. Mạc Thiên Tích (鄚天錫)tự là Sĩ Lân (士麟),còn gọi là Mạc Thiên Tứ (鄚天賜),là danh thần đời chúa Nguyễn. Ông sinh năm Mậu Tuất (1718) và mất năm Canh Tý (1780). Ông là con Tổng binh Mạc Cửu - người không đội trời chung với triều Mãn Thanh, khi nhà Minh bị diệt, đã gần như cùng lúc với Trần Thượng Xuyên ở Cù lao Phố, Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho, Mạc Cửu cũng rời bỏ Trung Hoa để đến dựng nghiệp ở Hà Tiên, sau đó với nhãn quan chính trị sâu rộng đã hết lòng phò chúa Nguyễn và được chúa Nguyễn phong là Tông Đức hầu. Khi Mạc Cữu qua đời (1735), lúc ấy Mạc Thiên Tích 29 tuổi, đã nối nghiệp cha lập được nhiều công lao chính trị quân sự, kinh tế, văn hóa to lớn, được chúa Nguyễn Phúc Trú phong chức Tổng binh Đại đô đốc. Ông tiếp tục sự nghiệp khai khẩn miền Tây Nam Bộ, biến vùng đất Hà Tiên trở thành đất văn hiến, phồn vinh, nhiều lần chống trả lại các cuộc xâm lấn của các lân bang Xiêm La và Chân Lạp. Thi sĩ Đông Hồ đã có thơ ca ngợi công trạng của hai cha con họ Mạc đối với non sông Việt "Chẳng đội trời Thanh Mãn/ Lần qua đất Việt bang/ Triều đình riêng một góc/ Trung hiếu vẹn đôi đường/ Trúc thành xây vũ lược/ Anh Các cao văn chương. Những người như Mạc Cữu, Mạc Thiên Tích cũng như Alexandre Yersin (1863-1943)đã chọn đất Việt làm quê hương và đã làm rạng dạnh cho xứ sở.
HÀ TIÊN THẬP VỊNH
tác phẩm của Mạc Thiên Tích
(Đông Hồ dịch)
1. Kim Dự Lan Đào
Một dẫy non xanh nước bích liền.
Giăng ngang mạch đẹp sông tiên.
Đông Nam sóng biển bằng trang cả.
Trên dưới trăng trời sáng rực lên.
Rồng cá vẫy vùng trong cõi nước.
Đá cây xan xát khắp ven miền.
Nghìn thu tiếng gió quanh chân sóng.
Đậm nhạt trăng treo nét lạ nhìn.
2. Bình San Điệp Thúy
Cây xanh ngăn ngắt vút cao cao.
Ngọn dựng bình dăng đẹp mĩ miều.
Mây sáng vây quanh hình nu1o rõ.
Đất trời bền vững nền linh tý,
Mây khói vời xa nỗi ước ao.
Danh thắng Hà Tiên đâu dám bảo.
Cây ngàn mơn mởn biết xanh gieo.
3. Tiêu Tự Thần Chung
Lác đác trời tàn nhạt ánh sao,
Chuông chùa xa vắng tiếng đưa vào.
Mơ màng cõi tục người tiên lẫn
Đồng vọng bờ cây bến nước xao.
Hạc để tiếng vương cành gió thoảng.
Quạ đưa lời gởi ngọn trăng cao.
Gối nghiêng giấc tỉnh đêm mê mộng
Sớm giục canh gà tin khát khao.
4. Giang Thành Dạ Cổ
Gió cuốn trời cao mây lạnh tung,
Sông dài vây tỏa khí anh hùng.
Lâu thuyền dãi bóng trăng sương lạnh,
Trống mõ cầm canh sóng nước trong.
Kim giáp đã nhờ đêm chặt chẽ
Cẩm bào cho được chốn thung dung.
Lược thao đem đáp tình minh chúa.
Nước Việt biên thùy vững núi sông.
5. Thạch Đông Thôn Vân
Xanh xanh ngọn đá chạm thiên hà
Động bích long lanh ngọc chói lòa.
Chẳng hẹn khói mây thường lẩn quất.
Không ngăn cây cỏ mặc la đà.
Phong sương càng dãi màu tươi đẹp
Nhật nguyệt chi ngừng bóng lại qua
Chót vót tinh hoa đây đã hẳn.
Theo chiều gió lộng vút cao xa.
6. Châu Nham Lạc Lộ
Bóng rợp mây dâm phủ núi non.
Bay la bay lả trắng hoàng hôn.
Góc trời thế trận giăng cây cỏ.
Đóa ngọc hoa rơi khắp bãi cồn.
Trăng dãi non treo làn thác đổ.
Chiều tà cát lẫn ánh mây tuôn.
Trên đường bay nhảy bao xuôi ngược
Nghĩ cảnh dừng chân bến nước còn.
7. Đông Hồ Ấn Nguyệt
Khói lạnh mây tan cõi diểu mang.
Một vùng phong cảnh giữa hồng quang.
Trời xa mặt sóng in đôi bóng.
Biển bạc vành gương dọi bốn phương.
Rỗng đã sánh cùng trời bát ngát,
Sâu còn so với biển mênh mang.
Cá rồng tỉnh giấc chi tan vỡ,
Một tấm lòng băng vẫn chói chang.
8. Nam Phố Trừng Ba
Một vùng xanh ngát một doành khơi.
Bãi nối màu thu tiếp sắc trời.
Mưa khéo mây đem về kết tụ
Gió nào cho sóng động tăm hơi.
Biển hâng hẩng sáng triều tuôn dẫy,
Buồm nhẹ nhàng đưa khỏi thoảng trôi.
Vực thẳm cá rồng còn ẩn náu.
Êm đềm nước ngậm bóng trăng soi.
9. Lộc Trĩ Thôn Cư
Lều tre giấc tỉnh gió lay mình,
Tiếng quạ ồn chi trước mái tranh.
Ráng xế treo ngang khung cửa tím
Cây vườn che lợp luống rau xanh
Tánh rần mộc mạc hươu nai dại
Lòng thích thơm tho nếp tẻ thanh.
Ai đó hỏi thăm nơi chốn ở.
Lưng trâu tiếng sáo lặng làm thinh.
10. Lư Khê ngư bạc
Bóng chiều nắng ngả dòng sông thẳm,
Rạch Vược đèn ngư khói chập chùng
Bến cũ nhấp nhô thuyền đỗ sóng
Vờ xa san sát lưới phơi trăng
Cánh tơi sáo thấm sương pha buốt,
Mái trúc chèo khuya nước sáng trưng.
Lồng lộng vời trông cười thử hỏi
Cá rồng vùng vẫy chốn nầy chăng.
TEN POEMS OF HA TIEN
Chinese original by Mac Thien Tich
Vietnamese by DONG HO
1. THE FORTRESS MOUNTAIN
A series of green mountain blue water links
Transversally hangs the Deities river
Southeast sea waves all are flat.
Up down the celestial moon brightens strongly
Dragon fish freely swim in aquatic world
Stones & trees are self-close along the coast
Eternally the wind blows around wave foot
Contrast the moon hangs with strange traits.
(100.0)
2. THE BINH SAM MOUNTAIN
Very green trees stand up high.
Their tops are beautiful & charming
Clear cloud surrounds clearly mountain picture
The universe is sustainable the holy first Earth stem
Smoke far way induces wishes
The tourist attraction of Ha Tien no one dare say
Forest trees very young know green sowing
(100.0)
3. The TAM-O’- SHANTER PAGODA
Sparsely, the sun sets light starlight
Far pagoda bell just sounds in
Dream the world life mixed with Deities.
From fields, tree hedges & wharfs flutter
The crane lets the wind lightly blow.
Crows send messages to the high moon
Inclining pillow wakes up from nightmare dream
Hasten the hour to aspire news
(100.0)
4. THE STRONGHOLD OF GIANG THANH
The wind whirls high sky & cold clouds.
Long river encircles the hero will
Long boats exposed to the moon & cold dew
Drums & tocsins mark times clear water wave
Golden shields thanks to close night
Brocade robe gained a free place
Tactics we helped the great lord
Viet Nam border is sustainable with the country
(100.0)
5. THE THACH DONG MOUNTAIN
Greener and greener rock top touches the Galaxy
Blue cave sparkle pearls blindingly dazzling
No dating smog lurks about
Not prevent the flora unsteadily wear
Wind and dew more expose their beauty
Sun and moon just stop then pass by
Very high the essence yet surely
Go with the wind to far high.
(100.0)
6. The DA DUNG mountain
Shady cloud covers mountains & hills
It flies low white at dusk.
Sky corner matrices web the flora
Pearly flower falls everywhere the dune
The moon hangs on the waterfall
At dusk sand mixed with cloud down
On the road back and forth how many times
Think of stop in the wharf existing
(100.0)
7. The DONG HO Lagoon
Smoke cold cloud disperses in magic world
On an area, scenery is in amid red light
The far sun waves print two shadows.
Silver sea looking glass brim lightens four corners
Empty compared with vast sky
Deep also compared with immense sea
Dragon fish wakes up whatever broken
A heart frozen is still blazing
(100.0)
8. Chilly Beach
An area very green is a watercourse
Colorful dune contacts sky color
Rainwater brought by cloud condenses
Which wind makes wave shaking?
Sea at dawn tides rise up
Sails lightly shoot floating
Deep abyss dragon fish still hide
Softly water feels deep moonlight
(100.0)
9. The MUI NAI hamlet
Bamboo canvas wake the wind shook
Crow yells so loudly before thatched roofs.
Eve cloud hung transversally violet doorframe
Garden trees cover green vegetable beds
Snake character is simple as wild deer stag
The heart likes the scent of green rice.
Who inquires habitats
Buffalo back the flute keeps silent
(100.0)
10. Silver fish at LU KHE
In eve shadow, sunlight inclines on deep river
Bass arroyo fish light smoke rolls
Old wharf up and down boats anchored.
Far seems close nets exposed to the moon.
Wings torn mina impregnated cold dew
Bamboo oars in late night stir clear water
Immensely watch smile and try to ask
Dragon fish freely swim this place
(100.0)
Aloha from Rach Gia City, 23-07-2011
xem tiếp:
NGỌC PHƯƠNG NAM
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)